Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

[Tám mươi ngày vòng quanh thế giới] Chương 11

Chương 11: Con voi hai ngàn bảng



Tàu xuất phát đúng giờ. Trong các khoang chen chúc những nhân viên văn phòng, nhân viên chính phủ, những tay buôn thuốc phiện và cần sa và sa số những kẻ khác cùng có ý định đến bờ biển phía đông. Passepartout ngồi cùng khoang với ông chủ, ngoài ra còn một người nữa ngồi đối diện họ. Đó là ngài Francis Cromarty, một trong những bạn chơi bài whist của ngài Fogg trên tàu Mongolia đang trên đường trở lại quân đoàn đóng ở Benares. Ngài Francis là một người đàn ông trạc ngũ tuần, cao lớn và trịnh thượng. Ngài đã lập chiến công khẳng định bản thân trong trận nổi dậy cuối cùng của quân Ấn Độ. Giờ thì ngài hầu như sống ở Ấn Độ, thỉnh thoảng lắm mới trở về thăm Anh quốc khi có kì nghỉ ngắn ngày; sau bao năm sinh hoạt với người Ấn bản địa, ngài trở nên quen thuộc với các phong tục, lịch sử và nhân cách Ấn như thể chính ngài vốn sinh ra trên đất Ấn vậy. Nhưng Phileas Fogg, dù chưa từng đi du lịch và chỉ sống cuộc sống luẩn quẩn ở London lại không hề gặp chút ngắc ngứ nào khi bàn về những chủ đề đó; ngài là một thực thể máy móc, du hành khắp thế giới chỉ nhờ những kiến thức khoa học. Chính lúc đó ngài cũng đang dành tâm trí để tính toán thời gian từ lúc họ khởi hành từ London, và, nếu ngài có bản chất giống người bình thường hơn, ngài đã xoa hay tay để biểu lộ sự hài lòng. Ngài Francis Cromarty đã dò xét sự kì lạ của người bạn đồng hành – dù cơ hội duy nhất mà ngài có thể tìm hiểu về ngài Fogg trước đó là thông qua những ván bài whist – và thắc mắc ngài Fogg có thật sự là con người sống hay không, và liệu Phileas Fogg có những cảm nhận rất “con người” về vẻ đẹp tự nhiên? Ngài thiếu tướng phải thú nhận rằng, trong tất cả những người quái gở ngài từng gặp, chẳng ai bì được với món sản phẩm khoa học chính xác tuyệt đối thế này.


Phileas Fogg chẳng giấu gì ngài Francis về kế hoạch đi vòng quanh thế giới của ngài, cũng như những điều kiện ngài phải đạt được; ngài thiếu tướng chỉ thấy trong cuộc cá cược này là một sự ngông cuồng chẳng đi đến đâu. Con đường mà quý ông lạ lùng này chọn sẽ chẳng có lợi cho bất cứ ai hay chính bản thân ông ta.


Một tiếng sau khi rời Bombay, chuyến tàu đã lướt qua những cầu cạn xe lửa và đảo Salcette để vào khu vực trung lập. Ở Callyan họ gặp một ngã ba, đi về hướng Đông Nam Ấn Độ qua đường Kandallah và Pounah; rồi băng qua Pauwell để vào những đường hầm xuyên núi đá baza với những chóp núi chót vót phủ tuyết và rừng xanh. Phileas Fogg và ngài Francis Cromarty thỉnh thoảng trao đổi vài từ, và lúc này ngài Francis gợi lại cuộc trò chuyện, “Vài năm trước thôi, ngài Fogg ạ, nếu ngài bị dừng tàu ở đoạn này ngài chắc chắn sẽ thua cược.”


“Vì lẽ nào, ngài Francis?”


“Vì đường ray kết thúc ở chân núi, và các hành khác buộc phải chuyển sang xe thùng hoặc ngựa để sang Kandallah.”


“Trì hoãn kiểu đó sẽ không đảo lộn kế hoạch của tôi chút nào,” ngài Fogg nói. “Tôi đã dự kiến trước phần lớn các chướng ngại.”


“Nhưng, ngài Fogg,” ngài Francis tiếp tục, “ngài đã suýt gặp rắc rối khi anh chàng đồng hành này khám phá am tự.” Passepartout, đang thoải mái bọc chân trong chiếc chăn du lịch đang ngủ say sưa và không hề nghĩ rằng có người đang nói về anh. “Chính phủ rất nhạy cảm với loại xúc phạm đó. Có vài tập tục tôn giáo của người Ấn cần phải đặc biệt tôn trọng, và nếu gia nhân của ngài bị bắt…”


“Ngài Francis,” ngài Fogg đáp; “nếu anh ta bị bắt, anh ta sẽ bị kết án và trừng phạt, rồi lặng lẽ trở về châu Âu. Chẳng có lí gì chuyện đó sẽ gây chậm trễ cho dự định của tôi cả.”


Cuộc nói chuyện dừng lại lần nữa. Trong khi đoàn tàu rời dãy nũi giữa đêm và chạy qua Nassik, ngày tiếp theo vượt qua vùng đồng bằng canh tác công của Khandeish, những ngôi làng rải rác nhấp nhô những tháp chùa cổ. Địa hạt phì nhiêu này được bồi đắp bởi vô số những dòng sông nhỏ và những dòng suối trong vắt, đa phần là các nhánh của Godavery*.


Passepartout nửa tỉnh nửa mơ nhìn ra ngoài và chưa kịp nhận ra sự thực rằng anh đang đi xuyên Ấn Độ trên đường ray xe lửa. Chiếc đầu máy xe lửa, được một kỹ sư người Anh điều khiển và dùng than đá làm nhiên liệu chính, nhả từng đợt khói trên những ruộng bông, ruộng cà phê, hạt nhục đậu khấu, tử đinh hương và hồ tiêu, được tưới tiêu bởi dòng suối uốn lượn hình vòng xoắn chạy xuyên qua những hàng cọ; giữa quang cảnh mênh mông đó thấp thoáng một vài ngôi nhà gỗ đẹp như tranh vẽ, những tu viện bị bỏ hoang, và những ngôi đền mang phong cách kiến trúc hoàng gia Ấn đẹp kì diệu. Trước mắt họ bất chợt xuất hiện những vùng đất bao la nối tiếp nhau kéo dài đến tận đường chân trời, với những khu rừng đầy rắn rết cọp beo trú ngụ; tiếng ầm ĩ của tàu lướt trên đường ray kéo theo những ánh nhìn trầm ngâm từ đàn voi gần đó. Vượt qua khu rừng là đến Milligaum, mảnh đất xấu số thẫm đẫm máu những nạn nhân của nữ thần Kali. Cách không xa là khu tàn tích Ellora với những ngôi đền thần thánh và Aurungabad nổi tiếng, nơi từng là hang ổ của Aureng-Zeb hung tợn, giờ trở thành thị trấn chính của một trong những tỉnh tự trị thuộc vương quốc Nizam. Những vùng lân cận đó từng bị thống trị bởi Feringhea, thủ lĩnh đội quân sát nhân, vua của những phạm nhân trốn chạy. Những kẻ du côn này liên kết với nhau bằng một mối ràng buộc bí mật, bóp cổ nạn nhân mọi lứa tuổi dưới danh nghĩa của Tử Thần mà không làm chảy một giọt máu nào; từng có một thời kì không ai dám du hành qua phần này của đất nước nếu không có quân đoàn bảo hộ tứ phía. Chính phủ Anh Quốc đã thành công trong việc quét gọn hang ổ chính của bè lũ sát nhân này, song chúng vẫn tồn tại nhỏ lẻ và tiếp tục theo đuổi những nghi thức khủng khiếp của chúng.


Tàu dừng ở Burhampoor lúc mười hai rưỡi và Passepartout nhảy xuống để mua vài đôi giày băng túp trang trí bằng ngọc trai giả Ấn Độ, và anh lấy làm hãnh diện khi mang chúng lắm. Du khách dùng bữa sáng qua loa, dạo quanh bờ của sông Tapty nhỏ đổ ra vịnh Cambray gần Surat đôi chút rồi sửa soạn lên đường đến Assurghur.


Giờ thì Passepartout đã bị cuốn hút bởi những ảo tưởng mới mẻ. Trước khi đặt chân lên đất Bombay, anh chàng đã duy trì hy vọng cuộc hành trình sẽ dừng lại ở đó; nhưng đến hiện tại khi họ vẫn đang quay cuồng vượt qua Ấn Độ bằng tốc độ nhanh nhất có thể, một sự thay đổi bất ngờ đã chinh phục hoàn toàn tinh thần của anh. Bản tính phiêu lưu cố hữu ập về cùng với những lý tưởng dị thường từ năm tháng tuổi trẻ một lần nữa hạ gục anh, khiến anh bắt đầu tin tưởng cuộc cá cược của ông chủ là thật, và rằng chuyến đi vòng quanh thế giới là hoàn toàn nghiêm túc, và họ phải tìm cách hoàn thành nó trong thời gian đã định. Giờ thì tâm trí anh chàng chuyển sang lo lắng cho những chậm trễ hay những tai nạn họ có thể sẽ đụng phải trên đường. Passepartout thấy mình nổi lên hứng thú cá nhân với vụ cá cược và run lên khi chợt nhớ ra rằng anh ta có thể đã thua cược một cách ngu ngốc vừa mới đêm hôm trước thôi. Anh không có được cái đầu lạnh khô queo của ngài Fogg, nên anh căng thẳng hơn ông chủ rất nhiều khi tính toán những ngày đã trôi qua, thốt lên bực bội mỗi lần tàu dừng lại và thầm nguyền rủa sự chậm chạp rất chính đáng của nó, trong khi không quên trách cứ ngài Fogg vì đã không hối lộ tay kĩ sư trong tâm tưởng. Chàng ta tự tin một cách vô lý rằng nếu tiền có thể bơm động lực cho tàu thuỷ, thì hiển nhiên cũng có thể dùng nó với tàu hoả.


Buổi chiều tối đoàn tàu chạy vào hẻm núi Sutpour phân tách Khandeish và Bundelcund. Ngày tiếp đó ngài Francis Cromerty hỏi giờ Passepartout; anh xem đồng hồ và khẳng định lúc đó là ba giờ sáng. Chiếc đồng hồ - vốn được chỉnh theo múi giờ Greenwich giờ đã xa lắc xa lơ ở về hướng Tây – chậm ít nhất bốn tiếng đồng hồ. Ngài Francis khuyên Passepartout chỉnh lại đồng hồ giống như Fix từng làm; ngài khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng cứ qua mỗi kinh tuyến mới thì ngày lại ngắn đi bốn phút, vì họ đang thẳng tiến đến hướng Đông. Nhưng Passepartout ngoan cố từ chối mó máy chiếc đồng hồ chạy giờ London của anh. Dù sao nó cũng là một ảo tưởng ngây thơ chẳng làm hại đến ai cả.


Lúc tám giờ tàu dừng lại giữa đồng không mông quạnh cách khoảng mười lăm dặm về Rothal, nơi có lác đác vài túp lều của công nhân và dăm ngôi nhà gỗ rộng hiên ven rừng. Ông lái tàu vừa đi dọc các cabin tàu vừa hét: “Đề nghị hành khách rời tàu.”


Phileas Fogg nhìn ngài Francis Cromarty yêu cầu được giải thích; nhưng chính ngài thiếu tướng cũng chẳng hiểu chuyện gì có thể xảy ra ở nơi khỉ ho cò gáy lác đác vài cây keo này.


Passepartout lao khỏi khoang trong tâm tình không kém ngạc nhiên, rồi nhanh chóng trở về mếu máo với ngài Fogg: “Monsieur, hết đường ray rồi!”


“Ý anh là sao cơ?” ngài Francis hỏi.


“Ý tôi là đoàn tàu không chạy tiếp được nữa.”


Ngài thiếu tướng vội vàng xuống tàu, trong khi Phileas Fogg bình tĩnh theo sau. Họ cùng nhau đối mặt với tàu trưởng.


“Chúng ta đang ở đâu?” Ngài Francis hỏi.


“Làng Kholby.”


“Chúng ta dừng ở đây?”


“Hiển nhiên vậy. Đường ray chưa làm xong.”


“Cái gì!? Chưa xong?”


“Chưa. Từ đây đến Allahabad còn năm mươi dặm nữa cơ.”


“Nhưng báo chí đã thông cáo rằng con đường được mở hoàn toàn rồi cơ mà!”


“Thì họ cứ viết vậy đấy ngài sĩ quan ạ. Báo chí hay nhầm lẫn mà.”


“Thế mà các ông lại bán vé từ Bombay đến Calcutta,” Ngài Francis bắt đầu trở nên nóng nảy.


“Hẳn vậy,” tàu trưởng trả lời, “nhưng mọi hành khách đều biết họ phải tự lo lấy thân từ Kholby đến Allahabad.”


Ngài Francis nổi giận, còn Passepartout thì sẵn sàng nện cho tay lái tàu một trận nên thân. Anh không dám nhìn vào mặt ông chủ nữa.


“Ngài Francis,” Ngài Fogg nói bình thản. “Nếu ngài đồng ý, chúng ta sẽ cùng tìm ra cách để đến Allahabad.”


“Ngài Fogg, sự chậm sẽ này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến chuyến đi của ngài đấy.”


“Không, ngài Francis; tôi đã liệu trước.”


“Gì cơ! Ngài biết đường ray…”


“Không hề; nhưng tôi biết sớm muộn cũng sẽ có bất trắc. Chuyện này không ảnh hưởng gì cả. Tôi có hai ngày tiết kiệm từ chuyến trước để bù vào chuyến này. Tàu thuỷ rời Calcutta đến Hồng Kông vào chiều ngày 25. Hôm nay là 22, và chúng ta sẽ đến Calcutta đúng lúc.”


Còn gì để bàn trước một phản ứng tự tin đến thế cơ chứ.


Báo chí đại khái thích cầm đèn chạy trước ô tô nên cứ vô tư loan tin rằng đường ray đã được hoàn thành. Quả thật phần lớn du khách đều biết trước rằng đường ray chỉ kéo dài đến điểm này nên nhanh chóng xuống tàu và tận dụng mọi phương tiện vận chuyển mà ngôi làng này cung cấo được, như xe thồ bốn bánh, xe vận chuyển lương thực địa phương, những chiếc xe thùng trông như chùa di động, kiệu, ngựa,…


Ngài Fogg và ngài Francis Cromarty đã bới tung cả ngôi làng lên mà chẳng tìm được gì hữu ích cả.


“Tôi sẽ đi bộ.” Phileas Fogg nói.


Passepartout, giờ tâm lý hoàn toàn tương thông với ông chủ, mặt nhăn mày nhó khi nghĩ đến đôi giày đẹp mã nhưng yếu rợt của mình. Nhưng may mắn thay chính anh cũng ngó nghiêng xung quanh, và, sau một giây lưỡng lự, anh nói.


Monsieur, tôi nghĩ rằng tôi đã tìm ra một phương tiện chuyên chở.”


“Phương tiện gì?”


“Một con voi! Nó thuộc về một người Ấn Độ sống cách đây tầm một trăm bước.”


“Chúng ta đến xem nó xem sao.” Ngài Fogg đáp.


Chỉ mấy phút sau họ đã đến một cái chòi nhỏ ven rừng, xung quanh dựng một lớp hàng rào cao, bên trong quả nhiên có một con voi. Chủ chòi người Ấn ra gặp họ, và mời họ vào bên trong để nói chuyện. Con voi thuần một nửa này được anh ta huấn luyện không chỉ để làm thú nuôi giúp việc mà còn vì mục đích chiến tranh. Anh người Ấn bắt đầu bằng việc thường xuyên chọc tức nó và cho nó ăn bơ trộn đường ba tháng một lần để tách nó khỏi tính hung ác vốn không phải của loài voi. Người Ấn thường dùng phương pháp này để huấn luyện voi dùng trong chiến trận. Ngài Fogg rất hài lòng, nhưng vấn đề là bản chất hiền lành của loài voi trong Kiouni – tên của con voi – chưa bộc lộ hoàn toàn. Con thú này , không nghi ngờ gì, có thể chạy khá nhanh trong một khoảng thời gian dài và hiệu quả hơn bất cứ phương tiện giao thông nào. Ngài Fogg quyết định thuê nó. Nhưng ở xứ Ấn, voi là loại động vật linh thiêng, bên cạnh đó những con voi đực còn thường xuyên bị săn lùng để bán vào rạp xiếc, đặc biệt là những con đã được thuần hoá, nên giá cả có thể nói là trên trời. Vì lí do đó mà anh người Ấn từ chối thẳng thừng ngay khi ngài Fogg đề nghị thuê Kiounin. Ngài Fogg vẫn cố chấp thuyết phục anh ta bằng mức giá hào phóng là mười bảng một giờ đến Allahabad. Từ chối. Hai mươi bảng? Vẫn từ chối. Bốn mươi bảng thì sao? Vô ích. Passepartout nhảy cẫng lên hốt hoảng với mỗi mức giá mới; ấy thế mà anh người Ấn vẫn không bị cám dỗ đâu. Thành thực mà nói, giả dụ con voi mà đến Allahabad chỉ trong mười lăm tiếng thì chủ nó sẽ nhận được không dưới sáu trăm bảng – một mức giá rất hấp dẫn.


Phileas Fogg vẫn giữ phong độ bình thản và đề nghị mua đứt con vật với giá một ngàn bảng. Anh người Ấn đã hơi bị lung lạc rồi, nhưng anh ta hẳn là muốn có một vụ mua bán ra trò, nên vẫn từ chối.


 Ngài Francis Cromarty lại gần ngài Fogg và cố gắng khuyên nhủ ngài suy nghĩ lại cho thấu đáo trước khi lao xa hơn; quý ông Phileas chỉ đơn giản trả lời rằng ngài không thích làm bất cứ việc gì nửa chừng, rằng vụ cá cược trị giá hai mươi ngàn bảng vẫn đang treo lơ lửng trên đầu ngài, và đối với ngài con voi tuyệt đối cần thiết đến mức dù có phải trả gấp hai mươi lần giá trị thực của nó ngài cũng không ngần ngại. Tuyên bố xong, ngài Fogg trở lại chỗ anh người Ấn nhỏ thó với cặp mắt sắc lẻm như dao cạo đang loé lên lòng tham vô tận. Hắn ta biết rõ hắn sẽ đạt được một thoả thuận đáng kể, vấn đề chỉ là thời gian. Ngài Fogg đầu tiên đề nghị hai trăm bảng, rồi đến năm trăm bảng, tám trăm bảng, và hai ngàn bảng! Ngay cả mặt mũi Passepartout vốn thường hồng hào cũng trở nên trắng bệch và căng thẳng.


Tay người Ấn thoả hiệp với mức giá hai ngàn bảng.


“Lạy chúa tôi, ông ta sẽ phát tài!” Passepartout mếu, “Chỉ với một con voi.”


Giờ thì chỉ cần kiếm một hướng dẫn viên nữa là xong, và việc này hết sức đơn giản. Một chàng trai trẻ tuổi người Parsee có gương mặt thông minh tự ứng cử bản thân, và ngài Fogg chấp nhận, ngoài ra còn hứa thưởng một món tiền hào phóng để bồi bổ cho sự nhanh nhẹn và tận tuỵ của anh chàng. Con voi được dẫn ra khỏi hàng rào. Anh chàng Parsee, nguyên là một tay quản tượng đầy kinh nghiệm, phủ lên lưng voi một tấm yên vải và bố trí hai chiếc yên không mấy tiện nghi ở hai mạn sườn nó. Phileas Fogg trả gã người Ấn bằng tiền mặt rút từ chiếc túi xách, và việc chiếc túi nhẹ mất mất gam làm tâm tình Passepartout hụt mất một miếng. Rồi ngài Fogg đề nghị đưa ngài Francis đến Allahabah, và tất nhiên ngài thiếu tướng hết sức vui mừng chấp nhận. Chẳng ai thích tự ngược đãi bản thân khi có thể ngồi ngất ngưởng trên một con quái vật cả. Họ mua thêm lương thực tiếp tế ở Kholby, và trong khi ngài Francis và ngài Fogg mỗi người ngồi một ghế hai bên sườn voi, thì Passepartout yên vị trên tấm vải phủ lưng con voi còn anh chàng Parsee khoái chí ngất nghểu trên cổ voi. Chín giờ đúng họ bắt đầu rời làng. Con vật bước đi đều đặn tiến vào rừng cọ dày đặc.







*Godavery: là một dòng sông chảy từ miền Tây đến miền Nam Ấn Độ, được coi là một trong những lưu vực sông lớn của Ấn, là tuyến đường thuỷ chính của miền Trung Ấn Độ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét