Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

[Tám mươi ngày vòng quanh thế giới] Chương 13

Chương 13: May mắn ủng hộ kẻ dũng cảm

Đám lính canh đền

Đó là một ý tưởng táo bạo và liều lĩnh, thậm chí phải nói là bất khả thi. Ngài Fogg định mạo hiểm cả mạng sống, hoặc ít nhất là quyền tự do, để hoàn thành chuyện này. Nhưng ngài chẳng hề do dự, vả chăng bên cạnh ngài còn có một đồng minh quyết đoán và nhiệt huyết là ngài Sir Francis Cromarty.


Về phần Passepartout, anh đã sẵn sàng đối mặt với bất cứ bất ngờ nào dù khó tin đến đâu đi chăng nữa. Anh bị cuốn hút bởi ý tưởng của chủ nhân; anh nhận ra bên trong vẻ ngoài lạnh lùng đó là cả một nhân cách, một trái tim lớn. Anh bắt đầu yêu mến Phileas Fogg.


Còn lại cậu hướng dẫn – cậu sẽ chọn cách xử lý nào? Cậu ta sẽ không về phe người Ấn chứ? Vì cậu ta vẫn đang là trợ lý của họ, nên tốt hơn cả cậu nên duy trì thái độ trung lập.


Ngài Francis thẳng thắn hỏi cậu ta.


“Các quý ngài,” cậu hướng dẫn trả lời. “Tôi là người Parsee, cô ta cũng vậy. Hãy ra lệnh cho tôi như các ngài muốn.”


“Tốt!” Ngài Fogg nói.


“Tuy nhiên,” cậu hướng dẫn bồi thêm, “các ngài hẳn là biết rằng chúng ta đang mạo hiểm mạng sống; hoặc không thì cũng sẽ bị tra tấn dã man nếu bị bắt được.”


“Hẳn nhiên.” Ngài Fogg nói. “Chúng ta phải đợi đến nửa đêm mới hành động.”


“Tôi nghĩ vậy.” Cậu hướng dẫn nói.


Rồi cậu hướng dẫn người Ấn tốt bụng thuật sơ lược lại gia thế của nạn nhân. Đó là một cô gái nổi tiếng xinh đẹp gốc Parsee, con gái của một thương nhân khá giả ở Bombay. Nàng được giáo dục hoàn toàn theo kiểu Anh, và từ cung cách lẫn trí tuệ ai cũng nghĩ nàng là một người da trắng thực thụ. Tên nàng là Aouda. Không may thay nàng trở nên côi cút và bị ép gả cho một vương hầu già vùng Bundelcund;  nàng biết điều gì đang chờ đợi mình ở xứ xa lạ đó, nên đã cố chạy trốn một lần, rồi bị bắt trở lại và giao cho hàng họ của lão chồng già đã tắt thở xử lý. Chúng rất chờ đợi cái chết của nàng goá bụa trẻ đó, và đẩy nàng vào lễ hiến sinh.


Câu chuyện của cậu Parsee chỉ càng khiến ngài Fogg và “đồng bọn” cương quyết hơn. Họ thống nhất rằng cậu hướng dẫn nên dẫn voi hướng thẳng đến đền Pillaji nhanh nhất có thể. Nửa tiếng sau đó họ đã nấp tại một bụi rậm lớn an toàn cách đền tầm năm trăm bước; từ đó họ vẫn có thể nghe những thấy rên rỉ khóc lóc của đám đạo sĩ.


Sau đó họ bàn bạc cách cứu thoát nạn nhân. Cậu hướng dẫn khẳng định rằng cậu biết khá rõ cấu trúc của đần Pillaji nơi cô gái trẻ dang bị giam giữ. Họ nên chọn cách đột nhập bằng đường cửa trong khi cả lũ bè đàn Ấn đang chìm trong cơn say tuý luý, hay sẽ an toàn hơn nếu đào một cái lỗ trên vách tường? Họ có chút thời gian để quyết định xem nên lao đầu theo cách nào cho hợp lý; nhưng tất cả phải được tiến hành trong đêm chứ không thể là lúc bình minh khi cô gái bị lôi lên giàn hoả thiêu. Đến lúc đó rồi thì chẳng sự can thiệp nào cứu nổi nàng nữa.


Khoảng tầm sáu giờ khi trời nhá nhem tối, họ quyết định dò xét địa thế xung quanh ngôi đền. Tiếng rên rỉ của đám đạo sĩ chỉ vừa mới ngừng; đám thổ dân Ấn đang phê pha trong cơn say thuốc phiện, và không khó để luồn qua chúng vào đền.


Cậu Parsee, dẫn đầu đoàn, len lỏi giữa rừng cây nhẹ nhàng vô tiếng động như một con báo, và mười phút sau đó họ đã tập hợp bên bờ một dòng suối nhỏ. Nhờ ánh sáng mờ mịt của những bó đuốc tẩm nhựa thông, họ nhận ra cỗ xác ướp của lão vương hầu đặt trên giàn gỗ, chuẩn bị được thiêu cùng với vợ của lão. Ngọn tháp của ngôi đền hiện lên thấp thoáng giữa những tán cây dày đặc trong hoàng hôn trầm lặng cách cách giàn gỗ tầm một trăm bước.


“Đi!” Cậu hướng dẫn thì thầm.


Cậu ta trượt mình cẩn trọng qua đám bụi rậm mở đường cho bạn đồng hành; không gian hoàn toàn tĩnh mịch, chỉ có tiếng gió xì xào giữa những cành cây trụi lá.


Cậu Parsee nhanh chóng chạm tới giáp giới của khoảng trống được thắp sang bằng đuốc trước cửa đền. Xung quanh đền một đám người Ấn nằm ngủ la liệt trông hệt như một bãi chiến trường vừa kết thúc. Đàn ông, đàn bà và trẻ em nằm lẫn lộn cạnh nhau.


Cậu hướng dẫn vô cùng buồn phiền khi thấy đằng sau ngôi đền Pillaja, giữa những lùm cây, là đám hộ vệ của lão vương hầu đang canh cửa và tuần tra nghiêm ngặt dưới ánh đuốc; chắc hẳn mấy ông giáo sĩ cũng đang canh chừng.


Giờ thì chàng trai Parsee trẻ tuổi biết chắc rằng không có cách nào đột nhập được ngôi đền bằng đường cửa, nên đành phải dẫn “đồng bọn” quay trở lại. Phileas Fogg và Sir Francis Cromarty cũng hiểu được rằng không xơ múi gì nổi nếu cắm cổ vào hướng đó. Họ dừng lại và thầm thì hội đàm.



“Mới chỉ tám giờ thôi,” ngài thiếu tướng nói, “và đám hộ vệ có thể sẽ đi ngủ.”


“Chuyện đó là không thể đâu.” Cậu Parsee đáp trả.


Họ nằm xuống gốc cây và đợi.


Sauk hi cảm thấy thời gian đã trôi đủ, cậu hướng dẫn bật dậy và mò đến rìa rừng để quan sát, nhưng đám lính gác vẫn canh gác một cách nghiêm túc, và những tia sáng lờ mờ phát ra từ cửa sổ của đền.


Họ tiếp tục đợi đến tận nửa đêm; tiếc thay mấy tay lính khoả thân vẫn chẳng mảy may thay đổi, và hiển nhiên là họ không tính đi ngủ đêm nay. Một kế hoạch mới phải được vạch ra, và đã đến lúc bức tường đền thờ cần thêm một cái lỗ thông gió. Quan trọng hơn là họ phải tìm cách xác định liệu có tu sĩ nào đang canh chừng nạn nhân một cách cần mẫn như những chiến binh bảo vệ vòng ngoài không.


Sau cuộc thương nghị, cậu hướng dẫn tuyên bố mình đã sẵn sàng thử, và những người khác cũng mau chóng tán thành. Họ quẹo sang lối mòn để tiếp cận bức tường phía sau đền thờ. Khoảng tầm mười hai rưỡi đêm họ chạm đến bức tường mà không bị ai bắt gặp cả; chỗ này không có lính canh, cũng không có cửa sau hay cửa sổ. Đêm tối đen. Trăng khuyết cuối kỳ dần dần nhô lên từ đường chân trời và bị những đám mây dày đặc gặm cắn; độ cao của cây khiến bóng tối trở nên sâu hun hút.


Tiếp cận bức tường thôi thì chưa đủ; họ phải tạo được một lối đột nhập chỉ bằng những con dao bỏ túi. May mắn thay tường đền được dựng bằng hỗn hợp gạch và gỗ - không quá khó để khoét đục; chỉ cần moi được một viên gạch ra là mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều.


Họ bắt đầu công việc một cách âm thầm, cậu Parsee và Passepartout mỗi người một bên tìm cách nới lỏng những viên gạch để tạo nên lỗ hổng rộng khoảng hai feet. Họ hành động rất mau lẹ, nhưng đột nhiên tiếng khóc phát ra từ bên trong đền thờ kéo theo những tiếng khóc than đáp trả ở ngoài đền vang lên ngặt nghẽo. Passepartout và cậu hướng dẫn sững lại. Họ đã bị nghe thấy chăng? Đó có phải là tiếng cảnh báo? Sự cẩn trọng thúc đẩy họ trở về chỗ ẩn nấp. Một lần nữa họ núp trong rừng và đợi cho đến khi sự huyên náo dừng lại rồi mới tiếp tục trở lại công việc. Nhưng tình hình trở nên không mấy tốt đẹp, vì đám lính canh giờ lại xuất hiện giữa tiền sảnh của đền thờ trong trạng thái sẵn sàng đối phó với bất kỳ trạng huống bất ngờ nào.


Thật khó để diễn tả hết nỗi thất vọng của nhóm người. Thời điểm này họ chưa thể đến gần được nạn nhân; và sau đó thì cứu cô gái bằng cách nào được chứ? Ngài Francis xoa tay, Passepartout đứng bên cạnh, còn cậu hướng dẫn nghiến răng nghiến lợi giận dữ. Ngài Fogg vẫn im lặng chờ đợi và vô cảm như thường lệ.


“Chúng ta không còn cách nào khác ngoài bỏ cuộc.” Ngài Francis thì thầm.


“Không còn cách nào khác ngoài bỏ cuộc,” cậu hướng dẫn nhại lại ngài.


“Dừng,” ngài Fogg nói. “Chiều mai tôi mới phải có mặt ở Allahabad.”


“Nhưng ngài mong làm được gì chứ?” Ngài Francis hỏi. “Chỉ vài tiếng nữa mặt trời sẽ lên, và….”


“Luôn có ánh sáng cuối đường hầm.”


Ngài Francis nhìn thẳng vào mắt Phileas Fogg mong hiểu được chút suy nghĩ của quý ông Anh quốc lạnh lùng này. Đừng nói là ngài Fogg có ý định chộp lấy cơ hội giải cứu cô gái chính phút cô ta bị lôi lên tế đàn? Phải khẳng định rằng điều này là hết sức ngu ngốc, và thật khó để thừa nhận rằng ngài Fogg là một kẻ ngu ngốc. Ngài Sir Francis tán thành cách đó, nhưng thực ra chỉ để vở kịch khủng khiếp này kết thúc nhanh lẹ một chút. Cậu hướng dẫn dẫn họ ra rìa khoảng trống trước đền, chỗ họ có thể quan sát những nhóm người đang ngủ mê mệt. Trong khi đó thì Passepartout, ngồi vắt vẻo trên một cành đại thụ thấp là gần mặt đất, đang băn khoăn phân tích một ý tưởng đột ngột táng vào não bộ anh như một ngọn chớp giữa trời qua và cứng đầu không chịu rời khỏi.


Anh đã tự xỉ vả bản thân rằng ý tưởng đó quá ngu xuẩn, nhưng rồi lại nghĩ lại, “Sao lại không nhỉ? Đó có thể là cơ hội duy nhất; và lũ kia thì đều say bết cả rồi!” Mải nghĩ, anh chàng không nhận ra mình đã trượt xuống tận ngọn cây khiến cành cây oằn cả xuống đất.


Giờ khắc cứ trôi qua, và chẳng bao lâu thì những tia sáng mỏng mảnh báo hiệu bình minh xuất hiện, dù trời vẫn còn lờ nhờ tối. Chính là lúc này. Có một sự lay động trong đống thây đang ngủ, tiếng trống tay, tiếng nhạc và tiếng khóc nổi lên; đã đến lúc lễ hiến sinh được tiến hành. Cặp cửa đền bật mở, ánh sáng chói loà phát ra từ bên trong đền, ngài Fogg và Sir Francis có thể thấy bóng dáng nạn nhân giữa luồng sang đó. Nàng đã rũ bỏ vẻ lờ đờ mê muội khi bị chuốc thuốc phiện, và đang hoảng hồn khao khát thoát khỏi tay những kẻ đao phủ. Trái tim ngài Francis nhói lên, tay ngài siết lấy tay ngài Fogg và phát hiện ra ngài Fogg đang nắm chặt một con dao đã mở sẵn. Lúc đó đám đông bắt đầu di chuyển. Người phụ nữ trẻ một lần nữa rơi vào tình trạng tê liệt vì khói thuốc, và bị tha lôi giữa những lão đạo sĩ già khắm đang hộ tống cô bằng tiếng khóc cuồng tín và hoang dại.


Phileas Fogg và đồng bạn trà trộn vào rìa ngoài của đám đông để bám đuôi họ; hai phút sau họ đã đến bờ suối, và dừng lại cách giàn gỗ chứa xác lão vương hầu tầm năm mươi bước chân. Nạn nhân bị lôi lên giàn gỗ và đặt cạnh xác chồng, có vẻ thất thần vô tri giác. Rồi một ngọn đuốc được đem đến. Giàn gỗ tẩm đẫm dầu bắt lửa và bừng cháy.


Chính xác giây phút đó ngài Sir Francis và cậu hướng dẫn siết cản lại Phileas Fogg chuẩn bị nổi khùng và lao thẳng đến chỗ giàn gỗ. Nhưng ngài Fogg vừa đẩy họ ra thì toàn bộ cảnh tượng đột ngột thay đổi. Một tiếng khóc kinh hoàng vang lên. Rồi toàn bộ đám đông thất kinh hồn vía bổ nhào quỳ xuống đất.


Lão vương hầu già chưa chết, và lão vừa bất ngờ nhồm dậy, rồi như bị quỷ nhập tràng, lão bế bổng cô vợ bên cạnh và nhảy khỏi giàn gỗ đang cháy dở, rồi bước đi một cách ma quái giữa đám khói mù mịt.


Đám đạo sĩ, quân lính và thầy tu vẫn còn đang choáng ván hoảng hồn cắm mặt quỳ rạp trên mặt đất, không dám ngẩng mặt lên chứng kiến sự kiện dị thường vừa xảy ra.




Với đôi tay tráng kiện và sức lực trai trẻ, Passepartout bế theo nạn nhân vô hồn vô lực không mấy khó khăn. Ngài Fogg và Sir Francis bật dậy, cậu Parsee cúi đầu kính cẩn và Passepartout, không nghi ngờ gì, bình tĩnh hơn.


Rồi lão vương hầu trở-về-từ-cõi-chết tiến lại gần Sir Francis và ngài Fogg, và giục bằng giọng điệu cứng cỏi: “Chuồn lẹ thôi!”


Đó quả nhiên là Passepartout, người đã mò lên giàn gỗ giữa lúc khói lửa mù mịt, và lợi dụng bóng tối lờ nhờ để cướp người từ tay thần chết! Đó chính là Passepartout vừa thực hiện ý tưởng liều lĩnh đang đi qua đám đông vẫn còn trong tình trạng kinh hoảng.


Một khắc sau khi nhóm người biến mất trong rừng cây, họ đã yên vị trên con voi đang chạy hết tốc lực. Nhưng tiếng ồn và tiếng khóc, và một hòn đá sượt qua mũ của Phileas Fogg, cho biết rằng trò lừa gạt đã bị phát hiện.


Thi thể lão vương hầu già thật xuất hiện trong giàn gỗ đang cháy; và bè lũ tu sĩ đã hồi phục khỏi cơn khiếp đảm nhanh chóng thúc giục sự truy đuổi.  Họ đâm bổ vào rừng, theo sau là đám quân sĩ đang nã từng loạt đạn lửa vào những kẻ trốn chạy; nhưng chẳng mất chốc họ Phileas Fogg và đồng bạn đã vượt khỏi tầm với của đạn lạc cung tên và biến mất.

  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét