Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

[Tám mươi ngày vòng quanh thế giới] Chương 6

Chương 6: Chàng thám tử kiên trì

Fix



Bức điện tín về Phileas Fogg được gửi đi dưới tính huống sau:


Chiếc tàu thuỷ bằng kim loại nặng hai ngàn tám trăm tấn năm trăm mã lực Mongolia của tập đoàn Peninsular and Oriental chuẩn bị cập bến vào thứ tư ngày mồng chín tháng mười tại Suez. Chiếc Mongolia di chuyển trên tuyến kênh Suez thường niên giữa Brindisi và Bombay, và là một trong những tàu thuỷ nhanh nhất của tập đoàn – nó có thể vượt mười hải lý giữa Brindisi và Suez trong một giờ, và chín hải lý trong nửa giờ giữa Suez và Bombay.


Hai người đàn ông đang hóng gió trên boong tàu giữa đám đông người bản xứ và người ngoại quốc. Một người là viên chức trong toà lãnh sự Anh quốc, người mà, mặc cho những lời khuyên ngăn của chính phủ Anh và những dự đoán bất lợi của Stepheson, vẫn có thói quen quan sát hoạt động qua lại của những chuyến tàu thường nhật của Anh trên các con kênh lớn từ cửa sổ văn phòng mình – nhờ những con kênh đó mà tuyến đường từ Anh đến Ấn Độ từ Mũi Hảo Vọng đã được rút ngắn ít nhất một nửa. Người còn lại nhỏ thó, hình thể thấp bé, gương mặt gian xảo nhưng bồn chồn, và đôi mắt sáng láo liên luôn nhấp nhổm dưới hai hàng mi mỏng. Anh ta đang mất kiên nhẫn – hai chân anh chàng nhịp liên tục và không thể dừng nổi dù chỉ một phút. Đó chính là Fix, một trong những thám tử được điều đi từ Anh quốc để truy đuổi kẻ trộm ngân hàng; công việc của anh là quan sát cẩn thận từng hành khách xuống tàu ở Suez một, và thăm dò tất cả những kẻ tình nghi tiềm năng, hoặc những kẻ mang các đặc điểm gần giống với bản mô tả nhân dạng phạm nhân mà anh nhận được hai ngày trước đó từ cơ quan cảnh sát đầu não tại London. Cũng thật dễ hiểu khi chàng thám tử trẻ tuổi lại tỏ ra hào hứng với vụ án và nóng ruột chờ đợi sự xuất hiện của tàu Mongolia đến vậy – món tiền thưởng ấn tượng trao cho người thành công quả là đáng để bỏ công sức!


“Vậy ngài nói là, ngài uỷ viên,” chàng ta mở miệng hỏi đến lần thứ hai mươi “chiếc tàu này không bao giờ trễ?”


“Không, ngài Fix,” ngài uỷ viên trả lời. “Nó đã liên lạc khi đến Port Said hôm qua, và chặng đường còn lại chẳng có biến động gì đáng kể cả. Tôi xin được nhắc lại rằng bảo bối Mongolia luôn đạt được tiêu chuẩn về thời gian của công ty, và từng giành cả giải thưởng về sự hiệu quả của nó.”


“Nó đến thẳng từ Brindisi?”


“Trực tiếp từ Brindisi; nó nhận bưu kiện Ấn Độ ở đó, rời cảng lúc năm giờ chiều thứ bảy. Hãy kiên nhẫn, ngài Fix; nó sẽ không đến muộn đâu. Nhưng thật sự mà nói thì tôi không nghĩ ngài có thể nhận ra người ngài muốn tìm chỉ nhờ bản mô tả ngài có, kể cả khi hắn có mặt trên Mongolia đi chăng nữa.”


“Nghề của tôi là ngửi thấy mùi của họ, ngài uỷ viên ạ. Ngài phải có dự cảm về họ, như kiểu giác quan thứ sáu kết hợp cả nghe nhìn và ngửi vậy đấy. Tôi đã tóm được nhiều hơn một quý ông loại này trong sự nghiệp của mình, và, nếu tay trộm của tôi có mặt trên tàu, hắn sẽ không thoát khỏi bàn tay tôi đâu.”


“Tôi mong vậy, ngài Fix; đó là một vụ trộm đáng kể đấy.”


“Một vụ trộm thần kì, ngài uỷ viên ạ; năm mươi lăm ngàn pound chứ đùa! Mấy khi có của trời cho thế này chứ. Bọn cướp ngày càng trở nên tệ mạt! Có tay bán cả tự do của mình chỉ vì mấy đồng si-ling!”


“Ngài Fix,” ngài uỷ viên nói, “tôi thích sự tự tin của ngài, và mong ngài sẽ thành công; nhưng tôi sợ rằng mọi việc không đơn giản vậy. Ngài không thấy rằng bản nhận dạng của ngài tả một quý ông hết mực phong nhã sao?”


“Ngài uỷ viên,” chàng thám tử cắt lời một cách quyết đoán, “những kẻ trộm vĩ đại luôn giống người trung thực. Mấy tay đầu trâu mặt ngựa chỉ có một con đường lương thiện mà thôi, nếu không chúng sẽ bị thộp cổ ngay tức khắc. Nhưng tôi phải thừa nhận rằng, việc lật tẩy một chiếc mặt nạ giả dối đòi hỏi không ít nghệ thuật.”


Ngài Fix hiển nhiên không thích lòng tự tôn bị đụng chạm.


Bến tàu dần dà trở nên nhộn nhịp; thuỷ thủ từ nhiều quốc gia khác nhau, thương nhân, người dỡ hàng, người vận chuyển hành khách,….tất cả trở nên tất bật chuẩn bị đón tàu. Trời trong và tiết hơi se lạnh. Ngọn hải đăng của thị trấn in bóng trên các lớp mái nhà ửng lên đôi chút nhờ những tia nắng mặt trời yếu ớt. Chiếc cầu cảng dài hai trăm yard kéo ra đến tận vùng vịnh. Từ cảng có thể thấy một số lượng lớn các loại tàu đánh cá và ca nô, có vài chiếc còn trông như lôi từ viện bảo tàng bập bềnh ngoài Biển Đỏ.


Trong khi rảo bước lách trong đám đông, theo thói quen nghề nghiệp, Fix phân loại các hành khách bằng một cái nhìn lướt nhanh và sắc sảo.


Giờ là mười rưỡi.


“Chiếc tàu chưa đến!” anh chàng thốt lên nôn nóng khi đồng hồ của cảng rung.


“Nó không cách xa lắm đâu,” ngài uỷ viên trả lời.


“Nó dừng ở Suez bao lâu?”


“Bốn tiếng, vừa đủ để nạp nhiên liệu. Từ Suez đến Aden là một ngàn ba trăm mười dặm phía cuối biển Đỏ, nên nó phải nạp thêm than đá mới.”


“Và nó đi thẳng từ Suez đến Bombay?”


“Không dừng ở bến nào cả.”


“Tốt!” Fix nói. “Nếu tay trộm có trên tàu thì chắc chắn hắn phải xuống ở Suez để có thể đến Hà Lan hoặc thuộc địa của Pháp ở châu Á bằng phương tiện khác. Hắn hẳn phải hiểu rõ sẽ không an toàn đến lưu lại dù chỉ một giờ ở Ấn Độ, vì nó thuộc về Anh.”


“Trừ phi,” ngài uỷ viên phản đối, “hắn là một thiên tài. Ngài biết đấy, một tội phạm người Anh luôn có cách che giấu thân phận ở London tốt hơn ở bất cứ nơi nào khác.”


Chàng thám tử để bản thân chìm vào suy luận, còn ngài uỷ viên trở về trụ sở. Còn lại một mình, Fix trở nên nóng ruột hơn bất cứ lúc nào, vì anh ta có dự cảm tên trộm nhất định đang ở trên tàu Mongolia. Nếu hắn ta có ý đinh rời London hướng đến Thế Giới Mới, hiển nhiên hắn phải đi qua Ấn Độ - cung đường ít bị kiểm soát hơn và khó bị theo dõi nhất vùng Đại Tây Dương. Nhưng suy tưởng của Fix nhanh chóng bị gián đoạn bởi một tiếng còi huýt dài báo hiệu tàu Mongolia chuẩn bị cập bến. Phu khuân vác và người phụ việc lập tức đổ xô về phía cầu cảng, và một tá thuyền lao khỏi bãi cát để tiếp cận chiếc tàu thuỷ. Thân tàu khổng lồ nhanh chóng xuất hiện giữa hai bờ kênh, và đồng hồ điểm mười một giờ khi tàu buông neo tại bến. Chiếc tàu chở theo một lượng hành khách bất thường, một số lưu lại trên boong ngắm cảnh, đa số còn lại nhanh chóng ào xuống khác đám tàu nhỏ để lên bờ.



Fix chọn một vị trí thuận lợi, cẩn trọng quan sát từng gương mặt và hình thể một. Trong số đó có một hành khách, sau khi dùng hết sức bình sinh chen được qua đám đông, xuất hiện bên cạnh anh và lịch sự hỏi anh chỉ đường đến phòng lãnh sự Anh, đồng thời xuất ra hộ chiếu với mong muốn được cấp thị thực. Fix nhòm vào quyển hộ chiếu theo bản năng, và nhanh chóng liếc qua phần mô tả. Một cảm xúc bất ngờ ập đến với Fix, vì mô tả trong hộ chiếu hoàn toàn trùng khớp với mô tả nhân dạng tên trộm nhà băng anh nhận từ Scotland.


“Đây là hộ chiếu của ngài?” anh hỏi.


“Thưa không, đây là hộ chiếu của ông chủ tôi.”


“Và ông chủ của anh hiện đang…”


“Ngài ấy hiện vẫn ở trên tàu.”


“Nhưng ngài ấy phải đích thân trình diện trước ngài uỷ viên để xác thực danh tích.”


“Ồ, đó là yêu cầu bắt buộc sao?”


“Tất nhiên là vậy.”


“Và phòng lãnh sự ở…”


“Đằng kia, góc quảng trường ấy”. Fix trả lời, chỉ tay về phía căn nhà cách tầm hai trăm bước.


“Tôi sẽ về thưa chuyện với ông chủ, dù rằng ngài ấy sẽ không mấy vui vẻ khi bị làm phiền.”


Người hành khách cúi đầu chào Fix và trở về tàu.

  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét