Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

[Tám mươi ngày vòng quanh thế giới] Chương 9

Chương 9: Trên tàu Mongolia




Suez và Aden cách nhau chính xác ba ngàn không trăm mười hải lý, và tàu Mongolia có đúng một trăm ba mươi tám giờ để hoàn thành nó. Nhờ những kĩ sư mạnh khoẻ và tận tuỵ mà nàng Mongolia khổng lồ nặng nề lại có thể cập bến cuối trước một khoảng thời gian đáng kể. Phần lớn hành khách từ Brindisi đều muốn đến Ấn Độ qua đường Bombay, hoặc đến Calcutta cũng từ Bombay nốt, nên công ty Bán Đảo Ấn đã xây dựng tuyến đường ngắn nhất cắt qua bán đảo Ấn. Trong số hành khách trên tàu có một số lượng lớn là các quan chức hoặc sĩ quan quân đội đa phẩm cấp, về sau gia nhập lực lượng quân sự Anh quốc hoặc trở thành chỉ huy quân nhân người Ấn trong quân đội Anh và nhận được lương bổng rất cao, do chính phủ đưa ra những chính sách mạnh mẽ bảo vệ quyền lợi của công ty Đông Ấn: 280 bảng cho chức vụ trung uý, 2400 bảng cho chức thiếu tướng, và tới 4000 bảng cho chỉ huy các đơn vị. Bên cạnh đó cũng có không ít những thanh niên Anh quốc giàu có đi du lịch đang bồn chồn một cách điệu bộ hy vọng thời gian trên Mongolia trôi qua thật mau. Mọi loại hưởng thụ xa xỉ trên tàu quanh quẩn trong bữa sáng, bữa trưa, bữa tối, và bữa trà lúc tám giờ; các quý cô thay đồ hai lần một ngày; thời gian dường như bay qua cửa sổ khi biển cả êm đềm trong tiếng nhạc, khiêu vũ và các loại trò chơi giải trí.


Nhưng biển Đỏ thì đỏng đảnh như một cô nàng khó chiều, thường xuyên biến động như bao vùng vịnh dài và hẹp khác. Vỏ tàu Mongolia run lên ầm ì sợ hãi khi đón gió đến từ hướng châu Phi hay bờ châu Á. Rồi các quý cô nhanh chóng biến mất, các tầng boong trở nên yên lặng; hát hò và nhảy múa lập tức ngừng bặt. Tuy nhiên con tàu vững chai vẫn băng băng thẳng tiến, bất chấp gió hay sóng, đến Bab-el-Mandeb. Phileas Fogg làm gì trong suốt quãng thời gian đó? Thường thì người ta hay bồn chồn quan sát sự thay đổi của gió, sự hoành hành hỗn loạn của sóng mỗi khi có cơ hội—hay đại khái là những thứ có thể ảnh hưởng đến tốc độ của Mongolia và gián đoạn cuộc hành trình. Nhưng, dù ngài có nghĩ đến những khả năng đó, ngài chẳng làm bất cứ điều gì thể hiện rằng ngài bị chúng lung lạc.


Ngài vẫn giữ hình tượng thản nhiên như lúc còn ở câu lạc bộ Cải Cách: không bao giờ bất ngờ trước bất cứ tai nạn nào, luôn kiên định chính xác như thi kế của con tàu, và hiếm khi đủ tò mò để lên boong tàu. Ngài bỏ qua những khung cảnh tuyệt mỹ trên Biển Đỏ với thái độ thờ ơ lạnh lùng; ngài không chút bận tâm đến những thị trấn hay làng mạc lịch sử dọc bờ biển đẹp như tranh vẽ phác thảo trên bầu trời; và cũng chẳng mảy may để ý đến những hiểm nguy của vịnh Ả Rập thường được các nhà sử học già mô tả một cách rùng rợn dựa trên những nghi lễ cúng tế hoành tráng của các nhà phiêu lưu gan dạ. Vậy quý ông người máy này đã sử dụng thời gian như thế nào? Ngài dùng đủ bốn bữa một ngày, dù chiếc tàu có lắc động dữ dội; ngài chơi bài whist không mệt mỏi cùng với bốn quý ông khác cũng hứng thú với trò giải trí này giống ngài. Một người thu thuế đang trên đường đến bưu điện ở Goa; cha xứ Decimus Smith đang trở về giáo khu ở Bombay; và một thiếu tướng của quân đội Anh đang chuẩn bị nhận lữ đoàn ở Benares. Cùng với ngài Fogg, họ lập thành một hội bài whist chơi ngày đêm không nghỉ trong cái im lặng tuyệt đối.


Còn về phần Passepartout, anh đã hoàn toàn hồi phục sau trận say sóng dữ dội và bắt đầu dùng bữa đầy đủ ở khoang phòng bên cạnh. Anh chàng hưởng thụ triệt để cuộc hành trình xa xỉ, ăn uống thoả thuê và sinh hoạt sung sướng, thích thú ngắm nhìn những khung cảnh mỹ lệ họ đi qua và tự thuyết phục bản thân rằng tất cả những thứ ngông cuồng này sẽ kết thúc ở Bombay. Anh rất thích thú khi tìm thấy người đã giúp đỡ mình trên cầu cảng một ngày sau khi họ rời Suez.


“Nếu tôi không nhầm,” anh tiếp cận người đàn ông với nụ cười với nụ cười chân thành nhất, “ngài là quý ông tốt bụng đã giúp đỡ tôi ở Suez?”


“A, tôi có nhận ra anh. Anh là quản gia của quý ông người Anh kì quặc….”


“Đúng là tôi, monsieur…


“Fix.”


Monsieur Fix,” Passepartout nhắc lại, “Tôi vô cùng vui mừng được gặp lại ngài trên tàu. Ngài đang hướng đến đâu vậy?”


“Cũng như anh, đến Bombay.”


“Bombay! Ngài từng đi chuyến này trước đây?”


“Một vài lần gì đó. Tôi là nhân viên của Công ty Bán Đảo.”


“Và ngài biết về Ấn Độ?”


“À thì đúng vậy,” Fix trả lời một cách thận trọng.


“Ấn Độ là một xứ kì lạ nhỉ, thưa ngài?”


“Ồ phải, rất lạ. Muỗi dãi, chùa chiền, hổ, rắn, voi, bọn thầy tu khổ hạnh, các nhà thờ Hồi Giáo! Tôi hi vọng anh có đủ thời gian để thăm quan chúng.”


“Tôi mong vậy, monsieur Fix. Ngài biết đấy, một người đàn ông bình thường sẽ chẳng dành thời gian quý báu trong đời chỉ để nhảy từ tàu thuỷ sang tàu hoả, rồi lại từ tàu hoả sang tàu thuỷ để làm một chuyến đi vòng quanh thế giới trong tám mươi ngày! Không; mấy trò này rồi sẽ dừng ở Bombay, ngài sẽ thấy!”


“Và ngài Fogg vẫn tốt chứ?” Fix hỏi với giọng bình thản tự nhiên nhất có thể.


“Ngài ấy rất khoẻ, và cả tôi nữa. Tôi ăn như chằn tinh bị bỏ đói vậy; nhờ không khí của biển đấy.”


“Nhưng tôi chẳng bao giờ thấy ông chủ của anh trên boong tàu cả.”


“Không đời nào; ngài ấy không có tính tò mò.”


“Anh có biết, anh Passepartout, rằng chuyến đi tám mươi ngày giả định này rất có thể để che giấu vài bí mật, kiểu như nhiệm vụ ngoại giao chẳng hạn?”


“Hãy tin rằng, monsieur Fix ạ, tôi đảm bảo với ngài tôi chẳng biết gì cả và cũng chẳng muốn có hứng thú tìm hiểu một tẹo nào.”


Kể từ sau cuộc gặp gỡ, Passepartout và Fix trở nên thân thiết hơn một cách nhanh chóng, tạo tiền đề cho một mối quan hệ bạn bè đáng tin tưởng. Fix thường mời anh chàng gia nhân người Pháp dễ mến một ly whiskey hoặc một ly bia ở quầy bar của tàu, và Passepartout luôn nhận lấy lòng tốt đó với một thái độ biết ơn hồn hậu trong khi không bao giờ quên tán dương nhân cách đứng đắn của người bạn đồng hành mới quen này.


Chiếc Mongolia vẫn di chuyển nhanh chóng; trong ngày thứ mười ba, người ta đã có thể nhìn thấy Mocha - được bao bọc xung quanh bởi những dãy thành luỹ vỡ nát và những hàng cây chà là - và những dãy núi phía trên được phủ xanh bởi những cánh đồng cà phê rộng lớn. Passepartout mừng quýnh lên khi được tận mục sở thị địa điểm nổi tiếng này, và nghĩ rằng, với những bức tường bao quanh và những đồn điền vỡ nát, trông nó giống như một tách cà phê khổng lồ trên chiếc đĩa đặt tách. Đêm tiếp đó họ đi qua vịnh Bab-el-Mandeb, hay còn gọi là Cầu Lệ thuộc Ấn Độ, và ngày tiếp theo họ đã đến cảng Aden ở phía Tây Bắc để nạp nhiên liệu. Với khoảng cách xa như vậy, việc cung cấp nhiên liệu cho động cơ chạy bằng than đá này rất quan trọng; nó ăn của công ty Bán Đảo một khoản tám trăn ngàn bảng mỗi năm. Với tuyến đường biển dài ngày, than đá có giá ba đến bốn bảng một tấn.


Chiếc Mongolia vẫn còn sáu trăm năm mươi hải lý cần phải hoàn thành để có thể cập bến ở Bombay, và buộc phải dừng tầm bốn tiếng đồng hồ ở Aden để nạp nhiên liệu. Nhưng chướng ngại này, như đã đoán trước, không hề ảnh hưởng đến chương trình của Phileas Fogg. Ngược lại, Mongolia, thay vì đáng lẽ ghé vào Aden vào sáng ngày 15, lại đến nơi vào chiều 14, sớm những mười lăm giờ.


Ngài Fogg và gia nhân lên bờ ở Aden để xin thị thực một lần nữa; Fix lặng lẽ theo đuôi họ. Ngay khi xin xong thị thực, ngài Fogg trở về tàu tiếp tục những công việc quen thuộc; trong khi Passepartout tranh thủ đi thơ thẩn giữa đám đông lẫn lộn người Đức, người Ấn, người Tây Ban Nha, người Do Thái, người Ả Rập, và cả hai mươi lăm ngàn người châu Âu cư ngụ tại Aden. Anh tò mò ngắm nghía những công sự đã biến nơi này thành Gibraltar của Ấn Độ Dương, và những bể chứa vĩ đại vẫn đang được các kĩ sư Anh hoàn thành sau hai ngàn năm bị bỏ dở từ thời Solomon.


“Kì diệu, hết sức kì diệu,” Passepartout tự thì thầm với chính mình trên đường trở về tàu. “Nếu một người muốn trải nghiệm những điều mới mẻ, du lịch quả là phù hợp nhất.”


Đúng sáu giờ tối, chiếc Mongolia từ từ rời bãi neo để tiếp tục hành trình đến Ấn Độ Dương. Tàu sẽ cập bến ở Bombay trong một trăm sáu mươi tám tiếng nữa, và điều kiện biển hết sức thuận lợi, gió thổi hướng Tây Bắc – tất cả như đang trợ giúp chuyến đi. Con tàu thỉnh thoảng cũng chao đảo đôi chút; các quý cô trong những bộ áo cánh mới tinh tươm lại xuất hiện trên boong để hát hò và nhảy múa. Phần lớn chuyến đi đã trôi qua thành công, và Passepartout bị mê hoặc bởi người bạn đồng hành tình cờ nhưng vui vẻ và lịch thiệp Fix. Chiều chủ nhật ngày 20 tháng 10, họ đã có thể thấy bờ Ấn Độ: hai tiếng sau đó hoa tiêu lên boong. Loạt đồi ẩn hiện ở đường chân trời, rồi những rặng dừa cảnh ôm lấy Bombay nhanh chóng xuất hiện. Chiếc tàu chạy vào tuyến đường hình thành từ những tiểu đảo trong vịnh, và đúng bốn rưỡi nó cập vào cầu cảng Bombay.


Đáng lẽ Phileas Fogg sẽ hoàn thành phần hành trình vừa rồi trong ba mươi ba ngày, nhưng thay vào đó ngài và chàng quản gia theo ngài đã chinh phục nó sớm hai ngày với một chiến thắng rực rỡ: chiếc Mongolia đến Bombay vào ngày 20 hay vì 22, điều giúp Phileas Fogg tiết kiệm được hai ngày quý giá. Ngài bình thản ghi nhớ thành tích này vào cột ghi chú.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét