Chương 21: Bằng cách nào mà chủ tàu Tankadere suýt mất món
tiền thưởng hai trăm bảng
Hành trình tám trăm hải lý này rất nguy hiểm với một chiếc
thuyền nặng vỏn vẹn hai mươi tấn, lại còn trong chính thời điểm này. Biển Trung
Quốc thường xuyên động mạnh dưới những trận gió cuốn quái ác, và đặc biệt là
vào xuân phân; và lúc đó là đầu tháng Mười.
Hiển nhiên ông chủ tàu sẽ kiếm được một món lợi rất lớn khi
đưa hành khách đến Yokohama, vì ông được đề nghị trả hẳn một trăm bảng một
ngày; nhưng sẽ là mạo hiểm ngu xuẩn nếu nhận chuyến hành trình đó, và thậm chí
nhận đến Thượng Hải cũng quá đủ bất cẩn rồi. Nhưng John Bunsby tin vào chiếc
Tankadere sẽ tung hoành trên sóng như những con mòng biển; và có lẽ ông ta đã
không sai.
Cuối ngày hôm đó họ đã vượt qua những kênh đào thất thường của
Hồng Kông, và chiếc Tankedere, được sự nâng đỡ của những đợt gió thân thiện,
lao đi một cách kiêu hãnh.
“Tôi không phải cần, ngài hoa tiêu,” Phileas Fogg nói khi họ
chạm đến cổng biển, “đề nghị ngài đi nhanh hết có thể.”
“Hãy tin tôi, thưa quý ngài. Chúng ta đang bắt mọi cơn gió
có lợi cho chúng ta. Tôi đã xả hết các thùng chứa nước neo tàu, và chỉ dùng đến
chúng khi vào đến cảng.”
“Đó là chuyên môn của ngài, không phải của tôi, ngài hoa
tiêu, và tôi tin tưởng ngài.”
Phileas Fogg, cơ thể thẳng tưng và hai chân dạng rộng, đứng
vững chãi như một thuỷ thủ và nhìn chăm chú vô cảm vào những đợt nước cuốn cao.
Người mệnh phụ trẻ ngồi ở phía sau bị cuốn hút sâu sắc bởi khung cảnh biển cả rộng
lớn trong nền ánh sáng tối mờ của hoàng hôn mà quên đi quyết định táo tợn của
mình khi bước lên con thuyền yếu đuối này. Những cánh buồm trắng vĩ đại trên đầu
nàng trông hệt như những chiếc cánh trắng vĩ đại. Chiếc thuyền được gió nâng đỡ
lướt trên sóng như lướt trên không khí.
Đêm đến. Tuần trăng thượng huyền mới bắt đầu, và ánh sáng
huyền ảo của nó sẽ sớm tắt ngấm sau màn sương dày phía chân trời xa xăm. Những
đám mây nặng trôi từ phương Đông giấu đi một phần thiên đường.
Viên hoa tiêu treo đèn lên để báo hiệu sự hiện diện của con
thuyền trong những vùng biển đông đúc này, bởi lẽ các va chạm trên biển cũng
không phải là hiếm, và với tốc độ hiện tại của chiếc Tankedere, một lần đụng chạm
cũng đủ khiến một chiếc thuyền du ngoạn phong nhã cỡ nhỏ vỡ vụn.
Fix dìm mình vào dòng suy ngẫm ở mũi tàu. Anh ta biết rõ
tính cách kiệm lời của ngài Fogg và cố giữ khoảng cách với những du khách đồng
hành; hơn nữa, anh không thích thú lắm việc trò chuyện với người đàn ông anh nhận
ân huệ. Anh ta cũng nghĩ về tương lai nữa. Có vẻ khá chắc chắn rằng Fogg sẽ
không dừng ở Yokohama, mà sẽ ngay lập tức bắt tàu đến San Francisco; và cái mảnh
đất châu Mỹ bao la đó sẽ xoá sạch mọi tội trạng cho ông ta và đảm bảo ông ta an
toàn. Đối với viên thám tử, kế hoạch đơn giản hết cỡ của Fogg hiện lên rõ rành
rành. Thay vì đi thẳng từ Anh quốc sang Hoa Kỳ như một kẻ đểu giả tầm thường,
ông ta du hành qua ba phần tư Địa Cầu để chắc chắn chiến thướng ở lục địa Châu
Mỹ; và rồi sau khi cắt đuôi cảnh sát khỏi đường chạy, ông ta sẽ lặng lẽ hưởng
thụ món tài sản kếch xù thửa từ nhà băng. Nhưng, một khi đã đặt lên lên Hoa Kỳ,
anh ta, Fix, nên làm gì bây giờ? Bỏ cuộc chăng? Cả trăm lần không! Trước khi
hoành thành mọi chuyện đến nơi đến chốn, anh ta sẽ không rời mắt khỏi ông ta dù
chỉ một giờ. Đó là bổn phận của anh ta, và anh ta sẽ làm tròn nó đến cùng. Dù
sao thì trong hoàn cảnh nào cũng có chuyện đáng mừng; Passepartout không đi
cùng ông chủ; và quan trọng hơn cả, Fix tự tin rằng sau khi bị anh ta tách khỏi
ông chủ, chàng gia nhân sẽ không bao giờ đuổi kịp họ.
Phileas Fogg cũng đang nghĩ đến việc Passepartout đột dưng
biến mất. Xem xét vấn đề này từ phía ngài, không thể nào có chuyện nhầm lẫn khiến
chàng trai lên tàu Carnatic ngay những phút cuối cùng; và đây cũng là ý kiến của
Aouda nữa. Nàng bứt rứt sâu sắc việc mất dấu anh chàng đồng hành trung thực mà
nàng nợ ân rất nhiều. Họ có thể sẽ tìm anh chàng ở Yokohama; vì nếu thực là chiếc
Carnatic có đưa anh chàng theo từ bến trước thì chắc chắn dự đoán được điểm anh
chàng sẽ xuống.
Khoảng mười giờ đêm một cơn lạnh dữ tràn đến; nhưng bất chấp
nguy hiểm của đá ngầm, viên hoa tiêu, sau khi đã cẩn trọng xem xét bầu trời, vẫn
tiếp tục cho chiếc thuyền giữ nguyên tốc độ như cũ. Chiếc Tankadere lướt sóng
tách nước kiên trinh; với mọi thứ đã sẵn sang để tăng tốc bất ngờ trong trường
hợp không có gió.
Ngài Fogg và Aouda lùi xuống cabin nghỉ ngơi vào giữa đêm. Fix
đã xuống từ trước và đang nằm thẳng cẳng như cây cột đổ. Hoa tiêu và nhóm thuỷ
thủ ở lại trên boong cả đêm.
Bình minh ngày hôm sau, tức là ngày 8 tháng 10, con thuyền
đã vượt được hơn một trăm hải lý. Bộ đo tốc độ thể hiện rằng thuyền đi khoảng
tám đến chín hải lý một giờ. Chiếc Tankadere vẫn căng hết các cánh buồm để hỗ
trợ công suất của thuyền. Trong tình trạng gió như hôm đó, thì mọi cơ hội đều
phụ thuộc vào đặc ân của chiếc thuyền. Vào ban ngày nó chạy dọc bờ duyên hải,
nơi có những dòng hải lưu thuận lợi; vùng biển bất thường này thỉnh thoảng xuất
hiện đột ngột những mảnh sương dày kéo dài tới năm dặm. Lòng biển đã bớt dao động
vì gió đến từ đất liền – trạng huống này là rất may mắn, bởi con thuyền nhỏ dễ
bị ảnh hưởng bởi những đột biến lớn từ biển.
Gió tán đi khi trưa đến, và đến từ hướng tây bắc. Hoa tiêu
giương buồm thượng hình tam giác, nhưng hai tiếng sau đã phải hạ nó xuống vì
gió mạnh trở lại.
Ngài Fogg và Aouda, thoải mái vì không bị chút ảnh hưởng bởi
những cơn biển động, dùng bữa hết sức ngon lành. Fix được mời chung bữa, và anh
ta chấp nhận với một sự phiền muộn kín đáo. Du hành bằng tiền túi của người đàn
ông này và sống nhờ bằng sự cấp dưỡng của hắn quả thật khiến anh ta ăn không
ngon nổi. Nhưng anh cũng buộc phải ăn để mà sống, nên anh ta đã ăn.
Khi bữa ăn kết thúc, Fix cáo lỗi rời bàn và nói, “thưa
ngài…” nhưng tiếng “ngài” này kẹt cứng trong miệng anh ta, và anh phải kiềm chế
mình để tránh không tóm cổ “quý ngài” này—“thưa ngài, ngài đã hết sức rộng lượng
khi cho phép tôi cùng đi trên chiếc thuyền này. Nhưng, mặc dù điều kiện của tôi
không dễ dàng thừa nhận được gánh nặng chi phí của hành trình như ngài, tôi có
trách nhiệm yêu cầu được trả phần của mình…”
“Đừng đề cập đến chuyện đó, thưa ngài.” Ngài Fogg đáp.
“Nhưng, nếu tôi nài nỉ được….”
“Không, thưa ngài,” Ngài Fogg lặp lại bằng một tông giọng
không chấp nhận câu trả lời khác. “Việc này là phần chi tiêu chung đã dự kiến
trước.”
Fix có một cảm giác nghèn nghẹn khi cúi đầu chào ngài Fogg,
và sau sự kiện đó anh ta không hề mở miệng thêm một lần nào suốt cả ngày.
Trong suốt thời gian đó mọi việc vẫn tiến triển đều đặn, và
John Bunsby có kì vọng rất lớn. Ông ta vài lần đảm bảo với ngài Fogg rằng họ sẽ
đến Thượng Hải kịp giờ; và mỗi lần quý ông đó đều đáp rằng ngài trông đợi điều
đó.Trước món tiền thưởng hấp dẫn, đoàn thuỷ thủ làm việc hết sức hăng hái.
Không có một cột buồm nào chưa được chăng buồm; không một chấn động nào có thể
lung lay tinh thần người điều khiển bánh lái. Họ nhiệt tình làm việc bạt mạng
như thể họ đang trong cuộc đua thuyền Hoàng Gia vậy.
Vào buổi tối, biểu đồ thể hiện rằng thuyền đã cách Hồng Kông
hai trăm hai mươi hải lý, và ngài Fogg có thể hi vọng rằng ngài sẽ đến Yokohama
mà không bị chậm hơn quá nhiều so với hải trình cá nhân; trong trường hợp đó,
những sai sót xảy ra từ khi ngài rời London sẽ không ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cả cuộc du hành.
Chiếc Tankadere vào eo biển Phước Kiến – eo biển ngăn cách
giữa Đài Loan và biển Trung Quốc. Biển động dữ dội ở những eo biển giao tuyến:
các xoáy nước hình thành từ các dòng đối lưu, sóng đi theo các hướng vô trật tự,
nên việc đứng trên boong tàu trở nên khó khăn.
Hoàng hôn đến đem theo gió mạnh, bầu trời báo hiệu bão đến.
Các phong vũ biểu thay đổi nhanh xoành xoạch, vạch thuỷ ngân dao động thất thường;
phương đông bắc nổi lên những dềnh sóng cao ngất. Mặt trời đã lủi vào mành
sương đỏ rực, nhưng cảnh trời vẫn lấp ló những tia sáng mảnh mai.
John Bunsby đã phát hiện ra mối đe doạ từ lâu trước đó nhờ
kiểm tra bầu trời, và cứ thầm thì trong kẽ răng những điều khó hiểu. Cuối cùng
ông ta mới nói với ngài Fogg bằng giọng trầm thấp, “Tôi xin nói thẳng với quý
ngài nhé?”
“Tất nhiên.”
“Chuyện là, chúng ta sắp gặp bão biển.”
“Gió hướng Bắc hay Nam?” Ngài Fogg hỏi bình tĩnh.
“Nam. Nhìn kìa! Một cơn lốc đang đến.”
“Lốc từ hướng Nam là tốt, nó sẽ đẩy chúng ta đi tiếp.”
“Ồ, nếu ngài nghĩ theo hướng đó,” John Bunsby nói, “thì tôi
chẳng còn gì để nói cả.” Nghi ngờ của John Bunsby đã được xác nhận. Trong một
mùa bất lợi nhất thì bão lốc, theo như những nhà khí tượng học, sẽ tan dần đi
như dòng thác ánh sáng kết bằng các tia lửa điện; nhưng trong tiết đông phân
thì e rằng nó sẽ có cường độ phá huỷ tàn khốc.
Viên hoa tiêu cảnh báo nguy hiểm. Ông cho hạ tất cả các cánh
buồm, cách cột buồm, chỉ giữ lại duy nhất một cánh buồm bằng vải bạt dai bền giữ
tàu xuôi gió. Rồi họ đợi.
John Bunsby đã yêu cầu các hành khách xuống hết khoang dưới;
nhưng với căn buồng có không gian chật chội nén khí và sự dập dềnh nhấp nhổm của
thuyền khi lao vào gió khiến việc ở lại đó trở thành một thảm cảnh. Ngài Fogg,
Fix, ngay cả Aouda cũng đều từ chối rời boong trên.
Mưa bão và gió cuốn kéo đến khoảng lúc tám giờ. Nhưng chỉ cần
một cánh buồm, chiếc Tankadere được bẫng đi nhẹ nhàng đi một sợi lông vũ thả
trôi trong gió. Phải nói rằng tốc độ của đó của chiếc thuyền gấp đến bốn lần một
đầu máy hơi chạy hết tốc lực.
Chiếc thuyền lướt xuyên đến hướng bắc suốt thời gian; những
con sóng dập dềnh thường xuyên xuất hiện, nhưng may mắn thay lại có tốc độ
tương đương chiếc thuyền. Phải đến hai mươi lần nó suýt nữa bị dấn chìm trong
những cuộn sóng cao như núi nổi từ phía sau; nhưng nhờ sự khéo léo đầy kinh
nghiệm của viên hoa tiêu mà nó luôn thoát khỏi hiểm hoạ trong gang tấc. Các
hành khách ướt như chuột lột, nhưng họ vẫn kiên quyết. Fix nguyền rủa luôn miệng,
hẳn nhiên rồi; nhưng Aouda, với đôi mắt đăm đăm dán chặt vào người bảo hộ của
nàng – sự lạnh lùng của ngài khiến nàng ngưỡng mộ trong kinh ngạc - và khiến nàng
quyết chí chịu đựng đối chọi một cách gan dạ với cơn bão để thể hiện nàng xứng
đáng với người đàn ông phong nhã đó. Còn như Phileas Fogg, cơn bão lốc chẳng
khác gì một sự kiện đã được đoán trước trong chương trình.
Cho đến thời điểm này chiếc Tankadere vẫn luôn giữ hướng chạy
về phương Bắc; nhưng tối đến gió nghịch hướng bốn mươi độ đẩy xuống hướng Tây Bắc.
Chiếc thuyền bị mắc kẹt giữa mối giao của các đợt sóng nghịch chiều nên lay lắc
quằn quại dữ dội; biển cả vặn xoắn nó bằng cơn giận dữ điên cuồng. Đên đến, cơn
bão gia tang mãnh liệt hơn. John Bunsby nhìn thấy bóng tối đang kéo đến và nghi
ngại trước việc mất phương hướng cơn bão khi bị màn đêm che lấp. Ông nghĩ ngợi
đôi chút, rồi bàn bạc với đoàn thuỷ thủ xem thời điểm này có thích hợp để giảm
tốc độ không. Thảo luận kĩ càng xong, ông tiếp cận ngài Fogg và nói, “Tôi nghĩ,
thưa quý ngài, rằng chúng ta tốt hơn hết nên ghé vào một khu cảng gần đây nhất.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.”
“A!” Viên hoa tiêu nói. “Nhưng cảng nào mới được?”
“Tôi chỉ biết một cái.” Ngài Fogg đáp thản nhiên.
“Và đó là…”
“Thượng Hải.”
Lúc đầu viên hoa tiêu còn do dự không hiểu lắm; ông ta không
nhận thức được rõ ràng sự kiên định và cố chập trong câu trả lời. Rồi ông ta thốt
lên, “Ồ đúng, đúng vậy! Quý ngài nói đúng. Đến Thượng Hải!”
Và thế là chiếc Tankadere nhanh chóng tiếp tục tiến về hướng
Bắc.
Đêm đó quả thực rất khủng khiếp; và quả thật phải có một
phép màu nào đó nên con tàu nhỏ mới không vỡ vụn. Lẽ ra là nó đã chìm hai lần nếu
đoàn thuỷ thủ không bất khuất căng mắt ra trông. Aouda đã kiệt sức, nhưng lại
không thốt ra một tiếng phàn nàn nào. Hơn một lần ngài Fogg đã gấp gáp lao đến
bảo vệ nàng trước những đợt sóng dữ.
Ngày mới lên. Cơn bão vẫn hoành hành với cơn giận dữ không
chút thuyên giảm; nhưng gió lại đổi sang hướng đông nam. Đó là một sự thay đổi
thuận lợi, và chiếc Tankadere một lần nữa vọt thẳng lên phía trước mặc cho xung
quanh sóng đánh cao như núi, những con sóng cắt nhau và tạo nên những cú chấn động
và phản chấn thừa sức nghiền nát một chiếc thuyền nhỏ dù có được đóng kiên cố.
Họ đã có thể nhìn thấy bờ biển mờ ảo giữa sương mù đặc, nhưng không thấy một
thuyền bè nào. Chiếc Tankadere hoàn toàn đơn độc giữa biển cả.
Buổi chiều mọi thứ có dấu hiệu giảm lặng đôi chút, và mọi thứ
hiện lên rõ rang hơn khi mặt trời bắt đầu lặn dần phía chân trời xa xăm. Cơn
bão đã rất khủng khiếp. Hành khách trên thuyền, hoàn toàn kiệt sức, giờ đã có
thể ăn uống và nghỉ ngơi lại một chút.
Đêm tĩnh lặng lạ lùng. Vài cánh buồm lại được chăng lên, và
tốc độ thuyền được duy trì rất tốt. Sáng hôm sau đó ngay lúc bình minh họ bắt
được bóng dáng bờ biển, và John Bunsby đã có thể xác định rằng họ chỉ còn cách
bến Thượng Hải khoảng một trăm hải lý. Một tram hải lý, chỉ trong một ngày! Chiều
tối ngay hôm đó ngài Fogg phải có mặt ở Thượng Hải nếu ngài không muốn lỡ chiếc
tàu thuỷ đến Yokohama. Nếu không mất dăm giờ đối phó với cơn bão thì lúc này họ
chỉ cách có đúng ba mươi dặm là đến đích thôi.
Gió lớn đã tĩnh lại, biển cả chung vui với gió. Giờ tất cả
các cánh buồm đã được căng lên, và tầm trưa Tankadere chỉ còn cách Thượng Hải bốn
mươi lăm dặm. Họ còn sáu tiếng để vượt qua khoảng cách đó. Tất cả mọi người bồn
chồn không biết họ có thể thành công không – trừ Phileas Fogg, bình tĩnh như mọi
khi, ngoại trừ có cảm giác trái tim ngài đập với nhịp độ mất kiên nhẫn. Chiếc
thuyền phải giữ được tốc độ chin hải lý một giờ, và gió lại dịu đi từng giây một!
Một đợt gió bất thường đến từ bờ biển, và rồi biển trở nên hiền hoà phẳng lặng.
Thế nhưng, chiếc Tankadere rất nhẹ, lại được căng những cánh buồm tốt nhất để bắt
được ngay cả những cơn gió hiu hiu nên, đại khái là, dưới sự nâng trợ của John
Bunsby, sau sáu tiếng họ cách cửa sông Thượng Hải vỏn vẹn mười dặm. Thượng Hải
bản thân nó được xây dựng trong ít nhất hai mươi dặm dòng chảy. Viên hoa tiêu
thề nguyền giận dữ; món tiền thưởng hai trăm bảng đang chuẩn bị vuột khỏi tay
ông. Ông nhìn về phía ngài Fogg. Ngài Fogg vẫn thản nhiên; ấy thế mà toàn bộ cơ
nghiệp của ngài đang treo trên một khoảnh khắc.
Đúng lúc đó, một khối thoi dài màu đen, thổi ra từng vòng
khói lớn xuất hiện cạnh bờ. Đó chính là chiếc tàu American, chuẩn bị đến
Yokohama.
“Đại hoạ rồi!” John Bunsby hốt hoảng, đẩy giật bánh lái sang
một bên trong cơn tuyệt vọng.
“Tín hiệu!” Phileas Fogg điềm tĩnh.
Một khẩu đại bác nhỏ bằng đồng ở hông thuyền Tankadere lập tức
phát tín hiệu trong sương mù. Nó được nạp sẵn đạn dược; nhưng ngay khi hoa tiêu
vừa định thêm than đá đun đỏ vào thân đại bác thì ngài Fogg nói, “Treo cờ lên!”
Lá cờ được kéo lên đến nửa cột cờ.
Đó là dấu hiệu nguy khốn khẩn cấp, hi vọng tàu American thấy được nó và đổi hướng
đi đôi chút để cứu kiếp chiếc thuyền hoa tiêu nhỏ.
“Bắn!” ngài Fogg nói. Một tiếng nổ
vang rền trong không khí.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét