Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

[80 ngày vòng quanh thế giới] Chương 21

Chương 21: Bằng cách nào mà chủ tàu Tankadere suýt mất món tiền thưởng hai trăm bảng


Hành trình tám trăm hải lý này rất nguy hiểm với một chiếc thuyền nặng vỏn vẹn hai mươi tấn, lại còn trong chính thời điểm này. Biển Trung Quốc thường xuyên động mạnh dưới những trận gió cuốn quái ác, và đặc biệt là vào xuân phân; và lúc đó là đầu tháng Mười.


Hiển nhiên ông chủ tàu sẽ kiếm được một món lợi rất lớn khi đưa hành khách đến Yokohama, vì ông được đề nghị trả hẳn một trăm bảng một ngày; nhưng sẽ là mạo hiểm ngu xuẩn nếu nhận chuyến hành trình đó, và thậm chí nhận đến Thượng Hải cũng quá đủ bất cẩn rồi. Nhưng John Bunsby tin vào chiếc Tankadere sẽ tung hoành trên sóng như những con mòng biển; và có lẽ ông ta đã không sai.


Cuối ngày hôm đó họ đã vượt qua những kênh đào thất thường của Hồng Kông, và chiếc Tankedere, được sự nâng đỡ của những đợt gió thân thiện, lao đi một cách kiêu hãnh.


“Tôi không phải cần, ngài hoa tiêu,” Phileas Fogg nói khi họ chạm đến cổng biển, “đề nghị ngài đi nhanh hết có thể.”


“Hãy tin tôi, thưa quý ngài. Chúng ta đang bắt mọi cơn gió có lợi cho chúng ta. Tôi đã xả hết các thùng chứa nước neo tàu, và chỉ dùng đến chúng khi vào đến cảng.”


“Đó là chuyên môn của ngài, không phải của tôi, ngài hoa tiêu, và tôi tin tưởng ngài.”


Phileas Fogg, cơ thể thẳng tưng và hai chân dạng rộng, đứng vững chãi như một thuỷ thủ và nhìn chăm chú vô cảm vào những đợt nước cuốn cao. Người mệnh phụ trẻ ngồi ở phía sau bị cuốn hút sâu sắc bởi khung cảnh biển cả rộng lớn trong nền ánh sáng tối mờ của hoàng hôn mà quên đi quyết định táo tợn của mình khi bước lên con thuyền yếu đuối này. Những cánh buồm trắng vĩ đại trên đầu nàng trông hệt như những chiếc cánh trắng vĩ đại. Chiếc thuyền được gió nâng đỡ lướt trên sóng như lướt trên không khí.


Đêm đến. Tuần trăng thượng huyền mới bắt đầu, và ánh sáng huyền ảo của nó sẽ sớm tắt ngấm sau màn sương dày phía chân trời xa xăm. Những đám mây nặng trôi từ phương Đông giấu đi một phần thiên đường.


Viên hoa tiêu treo đèn lên để báo hiệu sự hiện diện của con thuyền trong những vùng biển đông đúc này, bởi lẽ các va chạm trên biển cũng không phải là hiếm, và với tốc độ hiện tại của chiếc Tankedere, một lần đụng chạm cũng đủ khiến một chiếc thuyền du ngoạn phong nhã cỡ nhỏ vỡ vụn.


Fix dìm mình vào dòng suy ngẫm ở mũi tàu. Anh ta biết rõ tính cách kiệm lời của ngài Fogg và cố giữ khoảng cách với những du khách đồng hành; hơn nữa, anh không thích thú lắm việc trò chuyện với người đàn ông anh nhận ân huệ. Anh ta cũng nghĩ về tương lai nữa. Có vẻ khá chắc chắn rằng Fogg sẽ không dừng ở Yokohama, mà sẽ ngay lập tức bắt tàu đến San Francisco; và cái mảnh đất châu Mỹ bao la đó sẽ xoá sạch mọi tội trạng cho ông ta và đảm bảo ông ta an toàn. Đối với viên thám tử, kế hoạch đơn giản hết cỡ của Fogg hiện lên rõ rành rành. Thay vì đi thẳng từ Anh quốc sang Hoa Kỳ như một kẻ đểu giả tầm thường, ông ta du hành qua ba phần tư Địa Cầu để chắc chắn chiến thướng ở lục địa Châu Mỹ; và rồi sau khi cắt đuôi cảnh sát khỏi đường chạy, ông ta sẽ lặng lẽ hưởng thụ món tài sản kếch xù thửa từ nhà băng. Nhưng, một khi đã đặt lên lên Hoa Kỳ, anh ta, Fix, nên làm gì bây giờ? Bỏ cuộc chăng? Cả trăm lần không! Trước khi hoành thành mọi chuyện đến nơi đến chốn, anh ta sẽ không rời mắt khỏi ông ta dù chỉ một giờ. Đó là bổn phận của anh ta, và anh ta sẽ làm tròn nó đến cùng. Dù sao thì trong hoàn cảnh nào cũng có chuyện đáng mừng; Passepartout không đi cùng ông chủ; và quan trọng hơn cả, Fix tự tin rằng sau khi bị anh ta tách khỏi ông chủ, chàng gia nhân sẽ không bao giờ đuổi kịp họ.


Phileas Fogg cũng đang nghĩ đến việc Passepartout đột dưng biến mất. Xem xét vấn đề này từ phía ngài, không thể nào có chuyện nhầm lẫn khiến chàng trai lên tàu Carnatic ngay những phút cuối cùng; và đây cũng là ý kiến của Aouda nữa. Nàng bứt rứt sâu sắc việc mất dấu anh chàng đồng hành trung thực mà nàng nợ ân rất nhiều. Họ có thể sẽ tìm anh chàng ở Yokohama; vì nếu thực là chiếc Carnatic có đưa anh chàng theo từ bến trước thì chắc chắn dự đoán được điểm anh chàng sẽ xuống.


Khoảng mười giờ đêm một cơn lạnh dữ tràn đến; nhưng bất chấp nguy hiểm của đá ngầm, viên hoa tiêu, sau khi đã cẩn trọng xem xét bầu trời, vẫn tiếp tục cho chiếc thuyền giữ nguyên tốc độ như cũ. Chiếc Tankadere lướt sóng tách nước kiên trinh; với mọi thứ đã sẵn sang để tăng tốc bất ngờ trong trường hợp không có gió.


Ngài Fogg và Aouda lùi xuống cabin nghỉ ngơi vào giữa đêm. Fix đã xuống từ trước và đang nằm thẳng cẳng như cây cột đổ. Hoa tiêu và nhóm thuỷ thủ ở lại trên boong cả đêm.


Bình minh ngày hôm sau, tức là ngày 8 tháng 10, con thuyền đã vượt được hơn một trăm hải lý. Bộ đo tốc độ thể hiện rằng thuyền đi khoảng tám đến chín hải lý một giờ. Chiếc Tankadere vẫn căng hết các cánh buồm để hỗ trợ công suất của thuyền. Trong tình trạng gió như hôm đó, thì mọi cơ hội đều phụ thuộc vào đặc ân của chiếc thuyền. Vào ban ngày nó chạy dọc bờ duyên hải, nơi có những dòng hải lưu thuận lợi; vùng biển bất thường này thỉnh thoảng xuất hiện đột ngột những mảnh sương dày kéo dài tới năm dặm. Lòng biển đã bớt dao động vì gió đến từ đất liền – trạng huống này là rất may mắn, bởi con thuyền nhỏ dễ bị ảnh hưởng bởi những đột biến lớn từ biển.


Gió tán đi khi trưa đến, và đến từ hướng tây bắc. Hoa tiêu giương buồm thượng hình tam giác, nhưng hai tiếng sau đã phải hạ nó xuống vì gió mạnh trở lại.


Ngài Fogg và Aouda, thoải mái vì không bị chút ảnh hưởng bởi những cơn biển động, dùng bữa hết sức ngon lành. Fix được mời chung bữa, và anh ta chấp nhận với một sự phiền muộn kín đáo. Du hành bằng tiền túi của người đàn ông này và sống nhờ bằng sự cấp dưỡng của hắn quả thật khiến anh ta ăn không ngon nổi. Nhưng anh cũng buộc phải ăn để mà sống, nên anh ta đã ăn.


Khi bữa ăn kết thúc, Fix cáo lỗi rời bàn và nói, “thưa ngài…” nhưng tiếng “ngài” này kẹt cứng trong miệng anh ta, và anh phải kiềm chế mình để tránh không tóm cổ “quý ngài” này—“thưa ngài, ngài đã hết sức rộng lượng khi cho phép tôi cùng đi trên chiếc thuyền này. Nhưng, mặc dù điều kiện của tôi không dễ dàng thừa nhận được gánh nặng chi phí của hành trình như ngài, tôi có trách nhiệm yêu cầu được trả phần của mình…”


“Đừng đề cập đến chuyện đó, thưa ngài.” Ngài Fogg đáp.


“Nhưng, nếu tôi nài nỉ được….”


“Không, thưa ngài,” Ngài Fogg lặp lại bằng một tông giọng không chấp nhận câu trả lời khác. “Việc này là phần chi tiêu chung đã dự kiến trước.”


Fix có một cảm giác nghèn nghẹn khi cúi đầu chào ngài Fogg, và sau sự kiện đó anh ta không hề mở miệng thêm một lần nào suốt cả ngày.


Trong suốt thời gian đó mọi việc vẫn tiến triển đều đặn, và John Bunsby có kì vọng rất lớn. Ông ta vài lần đảm bảo với ngài Fogg rằng họ sẽ đến Thượng Hải kịp giờ; và mỗi lần quý ông đó đều đáp rằng ngài trông đợi điều đó.Trước món tiền thưởng hấp dẫn, đoàn thuỷ thủ làm việc hết sức hăng hái. Không có một cột buồm nào chưa được chăng buồm; không một chấn động nào có thể lung lay tinh thần người điều khiển bánh lái. Họ nhiệt tình làm việc bạt mạng như thể họ đang trong cuộc đua thuyền Hoàng Gia vậy.


Vào buổi tối, biểu đồ thể hiện rằng thuyền đã cách Hồng Kông hai trăm hai mươi hải lý, và ngài Fogg có thể hi vọng rằng ngài sẽ đến Yokohama mà không bị chậm hơn quá nhiều so với hải trình cá nhân; trong trường hợp đó, những sai sót xảy ra từ khi ngài rời London sẽ không ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả cuộc du hành.


Chiếc Tankadere vào eo biển Phước Kiến – eo biển ngăn cách giữa Đài Loan và biển Trung Quốc. Biển động dữ dội ở những eo biển giao tuyến: các xoáy nước hình thành từ các dòng đối lưu, sóng đi theo các hướng vô trật tự, nên việc đứng trên boong tàu trở nên khó khăn.


Hoàng hôn đến đem theo gió mạnh, bầu trời báo hiệu bão đến. Các phong vũ biểu thay đổi nhanh xoành xoạch, vạch thuỷ ngân dao động thất thường; phương đông bắc nổi lên những dềnh sóng cao ngất. Mặt trời đã lủi vào mành sương đỏ rực, nhưng cảnh trời vẫn lấp ló những tia sáng mảnh mai.


John Bunsby đã phát hiện ra mối đe doạ từ lâu trước đó nhờ kiểm tra bầu trời, và cứ thầm thì trong kẽ răng những điều khó hiểu. Cuối cùng ông ta mới nói với ngài Fogg bằng giọng trầm thấp, “Tôi xin nói thẳng với quý ngài nhé?”


“Tất nhiên.”


“Chuyện là, chúng ta sắp gặp bão biển.”


“Gió hướng Bắc hay Nam?” Ngài Fogg hỏi bình tĩnh.


“Nam. Nhìn kìa! Một cơn lốc đang đến.”


“Lốc từ hướng Nam là tốt, nó sẽ đẩy chúng ta đi tiếp.”


“Ồ, nếu ngài nghĩ theo hướng đó,” John Bunsby nói, “thì tôi chẳng còn gì để nói cả.” Nghi ngờ của John Bunsby đã được xác nhận. Trong một mùa bất lợi nhất thì bão lốc, theo như những nhà khí tượng học, sẽ tan dần đi như dòng thác ánh sáng kết bằng các tia lửa điện; nhưng trong tiết đông phân thì e rằng nó sẽ có cường độ phá huỷ tàn khốc.


Viên hoa tiêu cảnh báo nguy hiểm. Ông cho hạ tất cả các cánh buồm, cách cột buồm, chỉ giữ lại duy nhất một cánh buồm bằng vải bạt dai bền giữ tàu xuôi gió. Rồi họ đợi.


John Bunsby đã yêu cầu các hành khách xuống hết khoang dưới; nhưng với căn buồng có không gian chật chội nén khí và sự dập dềnh nhấp nhổm của thuyền khi lao vào gió khiến việc ở lại đó trở thành một thảm cảnh. Ngài Fogg, Fix, ngay cả Aouda cũng đều từ chối rời boong trên.


Mưa bão và gió cuốn kéo đến khoảng lúc tám giờ. Nhưng chỉ cần một cánh buồm, chiếc Tankadere được bẫng đi nhẹ nhàng đi một sợi lông vũ thả trôi trong gió. Phải nói rằng tốc độ của đó của chiếc thuyền gấp đến bốn lần một đầu máy hơi chạy hết tốc lực.



Chiếc thuyền lướt xuyên đến hướng bắc suốt thời gian; những con sóng dập dềnh thường xuyên xuất hiện, nhưng may mắn thay lại có tốc độ tương đương chiếc thuyền. Phải đến hai mươi lần nó suýt nữa bị dấn chìm trong những cuộn sóng cao như núi nổi từ phía sau; nhưng nhờ sự khéo léo đầy kinh nghiệm của viên hoa tiêu mà nó luôn thoát khỏi hiểm hoạ trong gang tấc. Các hành khách ướt như chuột lột, nhưng họ vẫn kiên quyết. Fix nguyền rủa luôn miệng, hẳn nhiên rồi; nhưng Aouda, với đôi mắt đăm đăm dán chặt vào người bảo hộ của nàng – sự lạnh lùng của ngài khiến nàng ngưỡng mộ trong kinh ngạc - và khiến nàng quyết chí chịu đựng đối chọi một cách gan dạ với cơn bão để thể hiện nàng xứng đáng với người đàn ông phong nhã đó. Còn như Phileas Fogg, cơn bão lốc chẳng khác gì một sự kiện đã được đoán trước trong chương trình.


Cho đến thời điểm này chiếc Tankadere vẫn luôn giữ hướng chạy về phương Bắc; nhưng tối đến gió nghịch hướng bốn mươi độ đẩy xuống hướng Tây Bắc. Chiếc thuyền bị mắc kẹt giữa mối giao của các đợt sóng nghịch chiều nên lay lắc quằn quại dữ dội; biển cả vặn xoắn nó bằng cơn giận dữ điên cuồng. Đên đến, cơn bão gia tang mãnh liệt hơn. John Bunsby nhìn thấy bóng tối đang kéo đến và nghi ngại trước việc mất phương hướng cơn bão khi bị màn đêm che lấp. Ông nghĩ ngợi đôi chút, rồi bàn bạc với đoàn thuỷ thủ xem thời điểm này có thích hợp để giảm tốc độ không. Thảo luận kĩ càng xong, ông tiếp cận ngài Fogg và nói, “Tôi nghĩ, thưa quý ngài, rằng chúng ta tốt hơn hết nên ghé vào một khu cảng gần đây nhất.”


“Tôi cũng nghĩ vậy.”


“A!” Viên hoa tiêu nói. “Nhưng cảng nào mới được?”


“Tôi chỉ biết một cái.” Ngài Fogg đáp thản nhiên.


“Và đó là…”


“Thượng Hải.”


Lúc đầu viên hoa tiêu còn do dự không hiểu lắm; ông ta không nhận thức được rõ ràng sự kiên định và cố chập trong câu trả lời. Rồi ông ta thốt lên, “Ồ đúng, đúng vậy! Quý ngài nói đúng. Đến Thượng Hải!”


Và thế là chiếc Tankadere nhanh chóng tiếp tục tiến về hướng Bắc.


Đêm đó quả thực rất khủng khiếp; và quả thật phải có một phép màu nào đó nên con tàu nhỏ mới không vỡ vụn. Lẽ ra là nó đã chìm hai lần nếu đoàn thuỷ thủ không bất khuất căng mắt ra trông. Aouda đã kiệt sức, nhưng lại không thốt ra một tiếng phàn nàn nào. Hơn một lần ngài Fogg đã gấp gáp lao đến bảo vệ nàng trước những đợt sóng dữ.


Ngày mới lên. Cơn bão vẫn hoành hành với cơn giận dữ không chút thuyên giảm; nhưng gió lại đổi sang hướng đông nam. Đó là một sự thay đổi thuận lợi, và chiếc Tankadere một lần nữa vọt thẳng lên phía trước mặc cho xung quanh sóng đánh cao như núi, những con sóng cắt nhau và tạo nên những cú chấn động và phản chấn thừa sức nghiền nát một chiếc thuyền nhỏ dù có được đóng kiên cố. Họ đã có thể nhìn thấy bờ biển mờ ảo giữa sương mù đặc, nhưng không thấy một thuyền bè nào. Chiếc Tankadere hoàn toàn đơn độc giữa biển cả.


Buổi chiều mọi thứ có dấu hiệu giảm lặng đôi chút, và mọi thứ hiện lên rõ rang hơn khi mặt trời bắt đầu lặn dần phía chân trời xa xăm. Cơn bão đã rất khủng khiếp. Hành khách trên thuyền, hoàn toàn kiệt sức, giờ đã có thể ăn uống và nghỉ ngơi lại một chút.


Đêm tĩnh lặng lạ lùng. Vài cánh buồm lại được chăng lên, và tốc độ thuyền được duy trì rất tốt. Sáng hôm sau đó ngay lúc bình minh họ bắt được bóng dáng bờ biển, và John Bunsby đã có thể xác định rằng họ chỉ còn cách bến Thượng Hải khoảng một trăm hải lý. Một tram hải lý, chỉ trong một ngày! Chiều tối ngay hôm đó ngài Fogg phải có mặt ở Thượng Hải nếu ngài không muốn lỡ chiếc tàu thuỷ đến Yokohama. Nếu không mất dăm giờ đối phó với cơn bão thì lúc này họ chỉ cách có đúng ba mươi dặm là đến đích thôi.


Gió lớn đã tĩnh lại, biển cả chung vui với gió. Giờ tất cả các cánh buồm đã được căng lên, và tầm trưa Tankadere chỉ còn cách Thượng Hải bốn mươi lăm dặm. Họ còn sáu tiếng để vượt qua khoảng cách đó. Tất cả mọi người bồn chồn không biết họ có thể thành công không – trừ Phileas Fogg, bình tĩnh như mọi khi, ngoại trừ có cảm giác trái tim ngài đập với nhịp độ mất kiên nhẫn. Chiếc thuyền phải giữ được tốc độ chin hải lý một giờ, và gió lại dịu đi từng giây một! Một đợt gió bất thường đến từ bờ biển, và rồi biển trở nên hiền hoà phẳng lặng. Thế nhưng, chiếc Tankadere rất nhẹ, lại được căng những cánh buồm tốt nhất để bắt được ngay cả những cơn gió hiu hiu nên, đại khái là, dưới sự nâng trợ của John Bunsby, sau sáu tiếng họ cách cửa sông Thượng Hải vỏn vẹn mười dặm. Thượng Hải bản thân nó được xây dựng trong ít nhất hai mươi dặm dòng chảy. Viên hoa tiêu thề nguyền giận dữ; món tiền thưởng hai trăm bảng đang chuẩn bị vuột khỏi tay ông. Ông nhìn về phía ngài Fogg. Ngài Fogg vẫn thản nhiên; ấy thế mà toàn bộ cơ nghiệp của ngài đang treo trên một khoảnh khắc.


Đúng lúc đó, một khối thoi dài màu đen, thổi ra từng vòng khói lớn xuất hiện cạnh bờ. Đó chính là chiếc tàu American, chuẩn bị đến Yokohama.


“Đại hoạ rồi!” John Bunsby hốt hoảng, đẩy giật bánh lái sang một bên trong cơn tuyệt vọng.


“Tín hiệu!” Phileas Fogg điềm tĩnh.


Một khẩu đại bác nhỏ bằng đồng ở hông thuyền Tankadere lập tức phát tín hiệu trong sương mù. Nó được nạp sẵn đạn dược; nhưng ngay khi hoa tiêu vừa định thêm than đá đun đỏ vào thân đại bác thì ngài Fogg nói, “Treo cờ lên!”


Lá cờ được kéo lên đến nửa cột cờ. Đó là dấu hiệu nguy khốn khẩn cấp, hi vọng tàu American thấy được nó và đổi hướng đi đôi chút để cứu kiếp chiếc thuyền hoa tiêu nhỏ.


“Bắn!” ngài Fogg nói. Một tiếng nổ vang rền trong không khí.    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét