Lúc đầu thì tôi không định viết về
“Kẻ trộm sách”; đúng ra mà nói tôi cũng lâu lâu rồi không viết review sách, vì
một là hơi bị lười, hai là toàn đọc sách chuyên môn, review ra chắc chết sặc.
Nhưng dạo gần đây khi tìm hiểu về quan hệ Trung Đông nói chung và lịch sử Do
Thái/Israel nói chung, tôi lại tuân theo luật kinh điển trong thói quen tiếp
thu kiến thức mới của mình: đọc truyện kể bao gồm yếu tố cần tìm hiểu thay vì đọc
tài liệu chuyên môn cụ thể. Tôi tìm đến trên hết là “Câu chuyện Do Thái”, sau
đó đến “Trí tuệ Do Thái” – cả hai quyển sách đều ít nhiều nói về văn hoá và lịch
sử Do Thái; và cuối cùng là “Kẻ trộm sách” – quyển tiểu thuyết khiến tôi không
thể không viết ra vài dòng, chỉ bởi một băn khoăn của thần chết vốn vẫn ám ảnh
tôi bao lâu nay: “làm sao mà một giống
loài lại có thể vừa quá xấu xa vừa quá vĩ đại như vậy, và làm sao mà từ ngữ của
giống loài ấy lại có thể vừa đáng nguyền rủa vừa thần diệu đến thế.”; cũng
bởi cả dòng cảm xúc lỏng đặc như thạch quấn vào dây thần kinh chi kết thúc những
trang cuối cùng.
Tôi sẽ không viết về quyển
“Trí tuệ Do Thái”, bởi đối với tôi nó – mặc dù theo một cách nào đó đem đến những
lời khuyên khá hữu ích trong học tập và tiếp thu tri thức, cũn như một số hiện
tượng tâm lý học khiến tôi khá thích thú – nhưng rốt cuộc về mặt văn học thì nó
chẳng hơn gì một câu chuyện nhàm chán có mô típ cũ rích được dựng lên chỉ để
làm nền cho những lời khuyên kinh điển. “Con đường Do Thái” thì có thể sẽ có một
bài riêng.
Đây là một câu chuyện đơn giản, viết
về cuộc sống của một cô bé mồ côi được đưa đến làm con nuôi trong gia đình
Hurbemann ở phố Thiên Đàng – một con phố nghèo thuộc nước Đức Quốc Xã đang
trong thời kỳ gây chiến khắp châu Âu và tích cực tạo nên thảm hoạ bài trừ Do
Thái. Câu chuyện không thực sự tập trung vào “nỗi buồn chiến tranh” kiểu Bảo
Ninh, cũng không mang sự dữ dội điên cuồng mà tắc nghẹn đến ngạt thở như “Phía
Tây không có gì lạ” của Remarque. Đó là một câu chuyện được kể bởi thần chết;
đó là một câu chuyện được kể lại bởi một sự thực hiển nhiên không thể tránh khỏi
trong quy luật tự nhiên; ông vốn thật bận rộn, đặc biệt là trong thời kỳ ngàn vạn
người cần đến ông không ngừng nghỉ, ấy vậy là ông vẫn đặc biệt dành lại tâm
tình và xúc cảm cho cô bé nhỏ sống nơi con phố nghèo đó cùng với những người chịu
ảnh hưởng bé nhỏ của cô bé. Điều gì đã làm nên sự đặc biệt của Liesel Memminger
đến mức ngay cả thần chết cũng phải giữ lại câu chuyện của cô và truyền lại cho
người khác – một hành động “truyền chữ” vốn là của Liesel chứ không thuộc bổn
phận cũng như trong tầm để tâm của ông? Đó là những lần cô bé ăn trộm những quyển
sách? Đó là tình bạn của một cô bé người Đức dành cho một tay đấm Do Thái trốn
nhui nhủi dưới tầng hầm? Đó là tình cha con dịu dàng và day dứt giữa cô và
Hans? Hay đó là tình mẹ con gai ráp nhưng không kém phần sâu đậm của cô bé và
bà mẹ nuôi Rosa? Cũng có thể là tình bạn vừa ngây thơ vừa dữ dội giữa Liesel và
Rudy?
Tôi sẽ bắt đầu bằng người bố nuôi
của Liesel, là ông thợ sơn kiêm chơi đàn xếp – một người đàn ông hiền từ và tốt
bụng có đôi mắt màu bạc trầm tư. Ông đón nhận Liesel bằng một tấm lòng bao dung
và kiên nhẫn – ông thức dậy mỗi đêm khi đứa bé gái vừa mất em trai trong một
đêm tuyết trắng xoá trên đường cùng mẹ đến chỗ vợ chồng ông khóc thét lên vì ác
mộng để đem đến cho con bé từng chút một sự an toàn, vỗ về nỗi bất an cô đơn
nơi nó. Ông dạy nó đọc chữ dù bản than ông cũng không biết đọc nhiều cho lắm,
và đem đến cho nó không chỉ chút kiến thức cơ bản mà còn đem đến cho nó cả một
bầu trời tình thương ấm áp từ một người cha. Đại khái là người ta có thể ngàn lời
để kể về mối quan hệ cha con đẹp đẽ giữa Hans và Liesel – đó quả thực là một mối
quan hệ ấm áp đầy xúc cảm chân thành đến đáng ngạc nhiên giữa hai con người
nguyên bản là hoàn toàn xa lạ. Thế nhưng điều khiến tôi đặc biệt chú ý đến Hans
không thực sự do mối quan hệ cha con giữa ông và Liesel. Nó rất đẹp, nhưng nó
chỉ là một phần trong con người của ông. Con người của ông không phải chỉ khi gặp
Liesel mới tốt đẹp và hoàn thiện. Con người ông đẹp đẽ và tốt bụng từ trong bản
chất; và quan trọng nhất là ông là một người thấu hiểu. Ông thấu hiểu chiến
tranh, bởi ông đã kinh qua đại chiến thế giới thứ nhất, và rồi sau khi có được
chút thời gian hạnh phúc cùng bồn chồn với gia đình và Max ông còn phải trải
qua cả đại chiến thế giới thứ hai; ông thấu hiểu cảm xúc của người khác, nên
chính vì vậy mà ông luôn dùng sự tốt đẹp, hoặc ít nhất là không bao giờ để sự
nghiệt ngã của mình đối diện với người khác – một người từng sượt qua đôi bàn
tay của thần chết thì còn gì mà không thể thông cảm? ông để lương tâm đồng cảm
với những người Do Thái bị dồn đến tận cùng tuyệt vọng, và ông, hơn ai hết, thấu
hiểu chính bản thân mình. Ông vừa dũng cảm, vừa hèn nhát.
Tại sao tôi lại nói ông vừa dũng cảm,
vừa hèn nhát? Ông giữ lời hứa của mình với một đồng đội Do Thái suốt từ trận
chiến trước để chứa chấp và che giấu một người Do Thái – con trai của đồng đội
– đến tận cận kề chiến tranh thứ hai – cuộc chiến tranh được phát động và nuôi
dưỡng bằng sự thù hằn và căm ghét giống loài bất hạnh muôn đời chịu sự trừng phạt
của Chúa đó. Ông dũng cảm không chỉ vì ông dám giữ lời hứa của mình, mà vì ông
còn “dám” từ chối nỗi căm thù vô lý của tập thể bị gợi lên bởi ngôn ngữ dằn dữ
của kẻ bạo chúa hầu như vô nhân tính – ông đã dám tin tưởng vào phán đoán của
mình để không trút sự phi lý lên dân Do Thái, và ông đã dám để lương tâm của
mình đem miếng bánh mì cũ đến cho những khối xương sống bị ép diễu hành qua phố
Thiên Đường để đến trại nghĩa địa. Ông đã phải trả giá bởi sự dũng cảm đó – vì
một hành động phút chốc mà ông hầu như tuyệt vọng trong sự tin tưởng rằng
“chúng nó” sẽ đến huỷ hoại gia đình nghèo nhỏ của ông để trừng phạt tội “yêu Do
Thái”, và cả tội giấu một người Do Thái dưới hầm – ông đã buộc phải đuổi Max đi
trong tình thế cuộc thảm sát đang lên đến đỉnh điểm. Đây chính là giây phút ông
hèn nhát hơn cả, không phải vì ông đuổi Max đi với hi vọng nhỏ xíu là có thể bảo
vệ mình và gia đình, mà vì ông đã để lương tâm cắn rứt ăn mòn hết cả sức sống của
mình, đến độ ông còn cầu cho quỷ dữ phát xít đến bắt ông đi để việc đuổi Max đi
không phải vô ích – ông đã hèn nhát không dám đối diện với việc mình đã sai lầm
một chốc rồi hại một mạng người; nhưng ông cũng đủ dũng cảm để thừa nhận sự dằn
vặt của lương tâm chứ không huyễn hoặc mình bằng những lý do hợp lý để bào chữa
cho sai lầm của mình – ví dụ như để bảo toàn gia đình, để bảo toàn bản thân hay
những điều tương tự như vậy. Liesel, mặc dù đau buồn khi Max phải ra đi, nhưng
cô bé đã hiểu một điều mà chính ông bố to lớn hàm hậu của cô dường như đã quên
mất: ông là một con người, chỉ là một con người mà thôi. Chính một câu nói ngắn
ngủi không được thốt ra của Liesel đã khiến tôi như bừng tỉnh: mối quan hệ của
hai người đều là dựa vào nhau. Đứa bé hẳn nhiên là dựa vào tình thương vô điều
kiện của người cha, nhưng chính Hans cũng dựa vào đứa trẻ cứng đầu và nhạy cảm
một cách khác thường đó để sống có ý nghĩa.
Rồi cũng chẳng lâu sau đó, ông
cũng phải nhận sự trừng phạt của mình. Ông “được” nhận vào đảng Quốc xã và bị
điều đi làm người dọn xác chết chiến tranh, ngụp lặn trong khói mỳ bom đạn hoà
với nỗi tuyệt vọng trong không khí; và ngay cả khi ông may mắn thoát khỏi cái
ôm ấm áp của thần chết đến tận lần thứ hai, thì tầm 3 tháng hạnh phúc ngắn ngủi sau khi đoàn tụ với gia
đình, một trận bom đến không chỉ cướp đi mạng sống của ông mà còn của hầu như tất
cả mọi bóng hình trong con phố Thiên Đường đứa, chỉ chừa lại mỗi kẻ trộm sách với
nỗi đau và sự kiên cường vĩ đại. Nhưng ít nhất khi chết, linh hồn của ông đã ngồi
dậy, và với thần chết, thì “nững người tốt bụng đều như vậy cả”. Ông đã sống một
cuộc đời ý nghĩa. Ông đã là một con người, và trên hết là một con người tốt đẹp.
Nhân vật thứ hai mà tôi muốn nhắc
đến là Rosa Hubermann, vợ của Hans. Người đàn bà bỗ bã và dường như có cái sức
sống gì đó mãnh liệt và cay đắng trong cách cư xử nhưng lại nhạy cảm và bao
dung đáng ngạc nhiên trong trái tim. Bà đến với người đọc bằng những cụm từ “đồ
con lợn” hầm hầm hổ hổ nhưng cũng đi cùng với chúng là sự nhân hậu, mạnh mẽ và
nhẫn nhịn, đến mức hầu như cho đến những trang cuối cùng tôi vẫn có ấn tượng với
bà hơn cả. Có ai tưởng tượng được một người phụ nữ, to béo, gương mặt như bìa
các tông, mở miệng là cằn nhằn và chửi bới, lại có một dòng chảy tình thương
kín đáo đến như thế: chẳng hạn như ngay khi bà gặp tay đấm Do Thái đến cầu cạnh,
một việc vốn đẩy cả gia đình vào vòng nguy ngập bất an ngày đêm, thì việc đầu
tiên bà làm là cho chàng trai khốn khổ đó ăn cho no cái đã, rồi để anh ta sưởi
chút cái đã. Hoặc như bà chạy đến trường Liesel chỉ để gấp gáp báo cho con bé rằng
cái tay đấm Do Thái Max đó đã tỉnh lại sau một cuộc đấu tranh với bệnh tật đến
từ sự cầm tù gián tiếp trong căn hầm nghèo nàn đó và từ sự giày vò của lương
tâm khi vẫn khao khát muốn sống. Hoặc như cái cách bà đối mặt với sự tuyệt vọng
của chồng trong cơn mù quáng truy tìm sự trừng phạt để việc trục xuất Max trở
thành chính đáng. Hay chính lúc bà mò tay xuống gầm giường lôi quyển sách của
chàng Do Thái bất hạnh đưa cho đứa con gái nuôi bướng bỉnh. Người phụ nữ đó đã
tỏ ra mạnh mẽ và cứng rắn đến phi thường, và thậm chí phải nói rằng chính bà mới
là cột sống cảm xúc của gia đình. Liệu có khi nào chính những người phụ nữ mới
thật sự là những nhân tố trụ cột cảm xúc trong gia đình chăng? Nhưng bất chấp
những hành động và những lựa chọn hành động đối mặt một cách cương quyết như thế,
Liesel vẫn có thể bắt gặp bà kín đáo ôm ghì chiếc đàn xếp của chồng đến mức như
thể nó chìm hẳn vào cơ thể bà. Như bao người phụ nữ khác, bà cũng mất con, hai
lần chia tay chồng, xoay sở cho gia đình trong nỗi thiếu thốn và còn phải là chỗ
dựa tinh thần vững chãi cho cả gia đình, ấy vậy mà mỗi bước của bà vẫn trầm vững
và thẳng tiến về phía trước, cho tận đến lúc linh hồn bà nằm trong vòng tay thần
chết. Những người đàn bà.
Trái ngược với bà, có lẽ là người
vợ của ngài thị trưởng, Ilsa Herman. Người phụ nữ yếu đuối đó mặc dù được phước
cho một cuộc sống ấm no ngay cả trong thời chiến thì dường như chính cuộc sống
đó cũng cướp đi cả sức mạnh đối mặt của bà. Khác với những người phụ nữ tối mặt
tối mày đối đầu với cuộc sống, cái chết của đứa con trai đã cướp đi toàn bộ sức
sống của bà và đặt bà vào sự trống rỗng u buồn suốt bao năm tháng đằng đẵng. Bà
có lẽ chỉ là một điểm chấm bé nhỏ trong câu chuyện, và một nhân tố đem đến cho
Liesel những quyển sách để con bé thay đổi cuộc sống của chính mình và những
người xung quanh mình. Nhưng sự thay đổi từng chút của bà có khi cũng đem đến
cho chúng ta một nỗi cảm thông mờ nhạt dành cho những người không thể tự cứu vớt
nổi bản thân mình.
Rồi lại đến nhân vật Rudy, thằng
bé ngọt ngào và ngỗ ngược đã “tia” trúng Liesel ngay từ cái nhìn đầu tiên ấy.
Thằng bé đã sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng cũng đầy ắp kỉ niệm với Liesel, cả
những hồi ức cay đắng về hiện trạng. Cảnh đẹp nhất trong truyện của Rudy đọng lại
trong tôi có lẽ là khi thằng bé nhảy xuống dòng nước buốt giá để vớt quyển sách
lên cho Liesel, và theo đó là câu hỏi vừa bất an vừa mong đợi: “một nụ hôn thì
thế nào, đồ con lợn?”. Thằng bé chỉ nhận được nụ hôn nó luôn mong muốn khi nó
đã chết. Nhưng dù sao chúng ta cũng không thể nói rằng đó là một nụ hôn muộn
màng. Đứa trẻ đơn thuần đó đã không bao giờ mở mắt ra nữa cùng với những người
trong con phố Thiên Đàng nghèo nàn đó, tên tuổi và sự tồn tại của nó biến mất
như chưa từng xuất hiện, và những chứng minh tồn tại duy nhất của thằng bé chỉ
còn ở trong mỗi tâm trí của Liesel và quyển sách Liesel viết nằm trong tay thần
chết: khi thằng bé nhận ra mình căm thù Quốc Trưởng, những buổi ăn trộm trong
cơn đói, khi thằng bé đem bánh mì rải đầy con đường mà những bộ xương khô Do
Thái phải diễu hành qua, những thằng bé cố gắng hết mình để chiến thắng những
cuộc thi chạy để chứng tỏ bản thân với bè lũ Thiếu Niên Hitler khốn kiếp và trở
nên quá nổi bật để rồi đẩy bố nó vào việc buộc phải đi lính; và cái cảnh khiến
tôi hầu như ngỡ ngàng nhất là khi thằng bé đặt con gấu bông bên cạnh một người
lính “kẻ địch” rớt cùng với máy bay. Chỉ một hành động của một thằng bé người Đức
ngây thơ và lời cảm ơn của một kẻ chết trận trên xứ người mà khiến toàn bộ những
tranh cãi về chiến tranh phi lý hay chiến tranh công chính phải câm lặng. Khi
Liesel thét lên rằng nó yêu thằng bé, thì linh hồn Rudy đã nằm trong vòng tay
thần chết và được thâm nhập một cách cẩn thận hơn bình thường. Nhưng chúng ta vẫn
biết, Rudy đã sống một cuộc đời ngắn ngủi và có ý nghĩa.
Và đến nhân vật Max, tay đấm Do
Thái trốn chui trốn nhủi dưới tầng hầm nhà Hubermann để tránh cuộc thảm sát Do
Thái của Đức Quốc Xã. Có lẽ có nhiều điều để viết về anh. Chẳng hạn, phải nói rằng
anh là một trong số những người may mắn ít nhất đã tìm được chỗ trú ẩn trong một
thời gian không ngắn, và dù bệnh tật và tuyệt vọng quấn thân thì anh vẫn sống
sót. Hoặc như anh là biểu tượng của cả một dân tộc ngàn đời bị bài xích và lúc
nào cũng phải lẩn khuất như phận chuột để rồi cuối cùng cũng vẫn bị thảm sát dã
man. Anh cũng có thể là biểu tượng của sự kiên cường, bám víu lấy cuộc sống một
cách tuyệt vọng. Chúng ta cũng rất có thể nói rằng sự sống sót của anh sau mọi
thảm hoạ áp lên người Do Thái và việc anh gặp gỡ Liesel sau khi đã tự do là
tương lai đầy kỳ vọng của cả một dân tộc. Chúng ta có thể nhìn thấy tinh thần
anh trong những giấc mơ mỗi đêm, khi anh mơ mình lên võ đài đấu với tay Quốc
Trưởng độc ác đó, và dù trong mơ anh luôn bị hạ gục bởi đám đông bị mê hoặc bởi
những từ ngữ ma mị của Quốc Trưởng, thì khi kể cho Liesel, anh đã thốt ra rằng
anh thắng ông ta – đó không chỉ là một giấc mơ Do Thái chiến thắng sự áp bức của
Đức Quốc Xã, đó còn là khát vọng của một người một chiến thắng sự suy sụp của
chính mình.
Nhưng điều làm tôi chú ý hơn cả
không phải vô số những ý nghĩa có thể gán cho sự tồn tại của Max, mà là một thứ
cảm xúc của anh khi trốn chạy, mà tôi muốn nói cùng với Hans và Micheal – một
người được về do đại thương trên chiến trường. Đó là cách họ đối mặt với khao
khát được sống khi đối mặt với cái chết. Cả anh và Micheal - con trai của một người
phụ nữ cũng “độc miệng” chẳng kém gì Rosa – cả hai đều sống trong nỗi giày vò của
lương tâm khi khao khát được sống: Max khi được một người bạn giúp đỡ trốn chạy
đã phải bỏ lại cả gia đình, và song hành với tình thương gia đình chính là cảm
giác nhẹ nhõm vì vẫn có cơ hội sống sót; còn Micheal, sau khi tận mắt chứng kiến
cái chết của em trai, anh may mắn hơn bị thương và được giải ngũ về nhà. Cả hai
đều đã lựa chọn khát vọng sống mãnh liệt của mình, và phải trả giá cho cái bản
năng tự nhiên của bất kỳ giống loài nào đó bằng nỗi xấu hổ và cảm giác tội lỗi
ăn mòn lương tâm. Micheal bị đẩy vào tình thế tận cùng của tuyệt vọng khi người
mẹ của anh, sau khi biết tin mất đứa con trai nhỏ, đã rơi vào tình trạng sẵn
sàng muốn chết, trong khi đó bản thân anh lại khao khát muốn sống. Sự mâu thuẫn
đã khiến anh tự kết liễu chính bản thân mình. Chúng ta có thể tưởng tượng được
chăng nỗi cuồng loạn của cả một thời đại đẩy con người vào đường chết chỉ vì muốn
sống?
Còn Max, sự lựa chọn của anh là đối
mặt sống với nỗi xấu hổ của mình. Đây là một lựa chọn hết sức kiên cường khi tất
cả đều đã bỏ cuộc. Nhưng có lẽ phải nói rằng phần lớn sức mạnh của anh đến từ kẻ
lay từ ngữ - cái cô bé nhỏ ở gia đình nghèo với khao khát những con chữ cùng cực.
Đứa bé gái đó đã làm bạn của anh, đem lại cho anh chút thanh thản, chút ấm áp
và cả một nguồn dũng khí để hi vọng. Có thể thấy hi vọng trong đáy cốc của Max
rõ ràng hơn hết ở những cảnh cuối cùng, khi anh sau bao lâu trốn chạy cũng bị bắt
lại và buộc phải diễu hành đến cái chết cùng với những người Do Thái khác, thì
khác với đồng loại tăm tối mất hết ánh sáng, anh vẫn ngó nghiêng đi tìm mẩu ánh
sáng của cuộc đời anh. Mẩu ánh sáng đó đã lao đến với tất cả sức lực và tình cảm
của mình, chịu những lằn roi buốt bỏng chỉ để kịp biết anh còn sống và bất lực
nhìn anh tiến đến chỗ chết. Có lẽ, sự trở về của anh với Liesel sau chiến tranh
không chỉ là biểu tượng của niềm hi vọng dân tộc, mà nó còn là phần thưởng của
sự kiên trì hi vọng và yêu thương đến những giây phút cuối cùng.
Hans cũng là một số phận phải trải
qua nỗi dằn vặt lương tâm như thế. Ông đã tự cho mình là hèn nhát trong chiến
tranh thế giới thứ nhất, và hẳn là nhờ thế ông mới sống sót. Nhưng rốt cuộc việc
nhận thức được nỗi sợ có thực sự là hèn nhát hay không? Và có sự hèn nhát nào
trong việc cảm thấy vui mừng vì bạn đã sống sót hay không? Là một người hầu như
là có kinh nghiệm đối mặt với những bóng tối trong suy nghĩ của mình, ông ít nhất
cũng đã vượt ra khỏi nỗi nhục nhã và đay nghiến chính bản thân mình khi khao
khát và vui mừng do còn sống – khác mới Micheal chọn giết mình, và khác với Max
hẳn sẽ đem nỗi nhục đó đến hết cuộc đời. Dù sao sự khác biệt của ông, ít nhất
là giữa ông và Max, đó là ông sống sót trong chiến tranh, còn Max thì bỏ lại
gia đình để sống sót sau thời kỳ danh tính dân tộc họ bị bài. Thế nhưng, trong
con mắt thần chết, tất cả những điều này không phải là một vết nhơ lương tâm
như họ vẫn hằng nghĩ. Trái lại, vị thần chết đã phải thốt lên: chính thế giới
này mới không xứng đáng với những người như các bạn.
Tôi để nhân vật chính, Liesel
Memminger đến cuối cùng, bởi cô bé là cây cầu kết nối mọi nhân vật khác, và
cũng chính là một tồn tại ảnh hưởng đến rất nhiều những con người xung quanh
cô. Có lẽ sẽ hợp lý hơn cả khi đặt cô vào vị trí ngang hàng nhưng đối lập với
chính Hitler – khi cả hai đều là những người lay chữ. Nhưng khác biệt lớn nhất
là, Hitler là một kẻ dùng ngôn từ để reo rắc căm ghét, thù hằn, khuấy động chiến
tranh và đem lại nỗi bất hạnh vô tận không chỉ cho những dân tộc khác mà còn
cho cả chính dân tộc của mình. Chỉ bằng sức mạnh của ngôn từ mà tên bạo chúa đó
đã đem sự trừng phạt đến biết bao nhiêu người: đến những con người tha hương
không tổ quốc như dân tộc của Max; đến những người phụ nữ tần tảo nuôi gia đình
nhưng vẫn buộc mình phải mạnh mẽ đối mặt với cơn đau cùng quẫn khi rời bỏ hoặc
mất người thân như Rosa; đến những người đã giúp đỡ những kẻ khốn cùng như Hans
hoặc người không chịu từ bỏ đứa con của mình như cha của Rudy; thậm chí đến cả
những người vốn vô tội như anh lính phi công rớt cùng máy bay nhưng may mắn được
nhìn thấy con gấu bông của Rudy ở phút cuối cùng trong đời mình. Ấy vậy mà kẻ
lay từ ngữ vĩ đại một cách xấu xa đó lại chưa từng ban phát một lời giải thích
nào cho những sự trừng phạt khủng khiếp đó, đặc biệt là đến những cái thây vô hồn
tộc Do và nỗi đau khổ sống không bằng chết của họ.
Đứng ở thái cực ngược lại hoàn
toàn kẻ bạo ngược đó là Liesel, mà theo như thần chết, chính là một trong những
người lay từ ngữ vĩ đại nhất trong lịch sử. Từ buổi khởi đầu cô bé đã khao khát
chữ nghĩa, và những hành động trộm sách của cô bé thể hiện một nỗi khao khát vô
tận dành cho ngôn từ. Nhưng chỉ ăn trộm sách cũng không có nghĩa là trộm được cả
chữ nghĩa. Cô bé đã sẻ chia nỗi khát khao con chữ cùng với hi vọng và tình cảm
của mình cho bố nuôi Hans, đem lại bình yên và dũng khí cho Max, kéo giật Ilsa
ra khỏi cái kén đau buồn trống rỗng, và trấn an những tâm hồn mờ mịt sợ hãi
trong những căn hầm tránh bom của phố Thiên Đàng. Nhưng điều quan trọng hơn cả
việc ảnh hưởng đến người khác, Liesel thấu hiểu sâu sắc quyền năng của từ ngữ
đó chính là niềm hi vọng. Cũng như cô bé dùng từ ngữ để đem hi vọng cho người
khác, chính cô bé cũng nhận được ơn huệ của ngôn ngữ và có một niềm hi vọng lớn
lao và không bao giờ tắt cho đến những giây phút cuối cùng. Thậm chí đã từng có
lúc cô bé nguyền rủa từ ngữ: khi cơ thể tràn đầy những vết thương và trái tim bị
xé toạc ra bởi những nỗi đau khôn cùng, cô bé hầu như đã phải cầu xin từ ngữ đừng
lấp đầy con người cô bé bằng hy vọng và niềm trông đợi vào một cái gì đó tốt đẹp
sẽ xảy ra. Hành động xé nát sách trong căn phòng của bà vợ ngài thị trưởng dường
như đã là phản kháng trong bất lực cuối cùng của Liesel trước ánh sáng mà từ ngữ
đem lại cho tâm hồn cô. Thế nhưng cũng chính hành động đó lại đưa Ilsa đến nhà
Liesel để mở ra cho Liesel một cơ hội mới: bà tặng choc ô bé một quyển sách trống
để cô bé tự viết nên câu chuyện của mình. Và chính lúc cô bé đang viết câu chuyện
của mình, chính lúc cô bé vừa chấp nhận sự trở lại của hy vọng dưới tầng hầm
nơi cô từng thân cận với Max, thì trận bom cuối cùng đến xoá số toàn bộ Thiên
Đường, chừa lại duy nhất đứa trẻ mà chúng ta không biết nên nói là may mắn hay
bất hạnh nữa.
Thế nhưng ngay sau đó, khi cô bé
đã mất tất cả: mất bố nuôi Hans, mẹ nuôi Rosa, bạn thân Rudy trong trận bom cuối
cùng, và cả Max đang tiến tới vòng tay cái chết, thì sự kiên cường của cô bé vẫn
khiến thần chết phải kinh ngạc. Thần chết kinh ngạc trước sức mạnh trong thân
thể bé nhỏ đó, cũng như trước loài người vốn bất lực đủ đường này – trước điều
họ có thể làm trong khi suốt nước mắt vẫn chảy khi họ loạng choạng tìm kiếm, và
tìm thấy. Ngay cả khi đó chỉ là những kết cục.
Và đó là câu chuyện về Liesel
Memminger, một kẻ trộm sách, một cô bé lay chữ nghĩa, được kể lại bởi một thần
chết. Một thần chết có trái tim, không có thân hình bộ xương cũng chẳng đem
theo lưỡi liềm. Một thần chết đặc biệt thích để ý màu của bầu trời mỗi khi ông
đón đi một linh hồn mới, bởi đó là đặc quyền của một hiện tượng tự nhiên vượt
khỏi tầm hiểu biết của loài người nhưng ai cũng phải trải qua không tài nào
tránh nổi. Những bầu trời dưới mắt của vị thần chết đó có lẽ còn đặc sắc hơn vô
số kiếp người độc đáo mà ông đã chứng kiến chăng? Tôi thì lại thích nghĩ ông bắt
đầu đặc biệt ưa thích sự thay đổi của bầu trời sau những năm tháng tối tăm đó,
sau khi ông biết đến số phận những con người như Max – đêm đen mò lên chỉ để
đánh cắp một giây để nhìn thấy bầu trời. Một vị thần chết chứng kiến mọi sự bằng
nỗi bình thản nhưng lại xúc động trước những cố gắng nỗ lực tột bậc của loài
người để chứng tỏ với ông rằng sự tồn tại của họ trên cõi đời này là đáng giá.
Và một thần chết, lặng lẽ để tâm đến một cô bé trộm sách, nhặt đi cuốn sách về
cuộc đời cô khi cô đã mất tất cả và phải bỏ lại mọi thứ sau lưng nếu muốn bước
tiếp. Đó là một kết cục luôn trăn trở với câu hỏi: làm sao mà một giống loài lại
có thể vừa xấu xa vừa quá vĩ đại như vậy, và làm sao từ ngữ của giống loài ấy lại
vừa đáng nguyền rủa vừa kỳ diệu đến thế. Đây có lẽ là câu hỏi không ai có thể
trả lời triệt để, bởi ngay cả cái chết, cái kết chung của vạn sự còn không trả
lời được. Cuối cùng, cái chết chỉ có thể thừa nhận với Liesel rằng, “Tôi bị ám ảnh
bởi những con người”.
Ngôn ngữ mới mẻ và cách hành văn
thú vị, các nhân vật độc đáo vừa bổ xuyết lại vừa mâu thuẫn nhau xuất hiện dưới
lời kể từ một hướng nhìn đặc biệt khách quan khiến câu chuyện vừa rộng lớn cũng
vừa tỉ mỉ. Chiến tranh không được nhắc đến một cách trực tiếp nhưung người đọc
vẫn có thể cảm nhận được sự dữ dội và nỗi đau nó đem lại một cách âm ỉ và đặc sệt
như chìm vào ảo giác. Những chi tiết nhỏ được nhấn mạnh lại đem đến những ấn tượng
đặc sắc về nhân cách các nhân vật trong truyện khiến tôi không thể dằn được nước
mắt. Một lựa chọn quá xứng đáng để suy nghĩ, cảm thông và trân trọng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét