Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

[Sách hay] Lời bộc bạch của một thị dân - Quyển I


Quyển 1



“Lời bộc bạch của một thị dân” là hồi ký của tác giả trong khoảng thời gian từ năm 1909 (từ lúc Márai Sándor 9 tuổi) đến khoảng năm 1934 khi tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên. Để có thể hiểu được qua về tác phẩm, trước hết phải đi qua bối cảnh lịch sử.


(Chú ý: Bài viết này được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, và rất nhiều ý kiến chủ quan người viết).


I, Bối cảnh lịch sử:


Márai Sándor sinh năm 1900, thời gian này Đế quốc Áo-Hung( thành lập năm 1987 và kết thúc năm 1918 cùng lúc với Đệ nhất Thế Chiến) đã thành lập được 33 năm. Lãnh thổ Áo-Hung trải dài nên tồn tại nhiều dân tộc. Ngoài hai dân tộc chính là người Áo và người Hungary còn có các dân tộc khác như người Tiệp Khắc, Serbia, Croatia, Ba Lan, Romania, Đức, Ukraina,…. Đây là một quốc gia đa ngôn ngữ, thi hành chính sách bóc lột áp bức dân tộc dã mạn, nên giống như Đế quốc Nga, Đế quốc Áo-Hung được mệnh danh là “nhà tù của các dân tộc”.


II, Xã hội – Giai cấp xã hội qua con mắt của một thị dân:


. Về kinh tế: Như bất kì một giai đoạn nào, tiền luôn đóng vai trò chính yếu trong việc phát triển kinh tế. Dựa theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của các nhà băng tư nhân và chủ trang trại tư nhân. Thời gian này Chủ Nghĩa Tư Bản đang theo đà phát triển, tiền đóng vai trò quyết định đến mức những ngân hàng dù chỉ là ngân hàng tư nhân nhỏ bé cũng vô cùng được giai cấp lao động vị nể cả sợ.


.Về Xã hội: Xã hội thời kì này có quan niệm đạo đức khá khác biệt, được Márai phác họa bằng một giọng điệu vô cùng nghiêm túc pha chút châm biếm. Ban ngày khi những hoạt động “hợp pháp” thì ban đêm lại nhường chỗ cho những hoạt động của dân Digan, những quán cà phê “đen” và những người đàn bà đáp ứng mọi nhu cầu hoàn toàn được coi là những hoạt động vô cùng bình thường khi “đêm đêm đức hạnh đã ngáy kho kho”. Thậm chí những hoạt động “giải quyết nhu cầu sức khỏe hàng ngày” được đáp ứng một cách công khai qua những nhà thổ không bao giờ thiếu bóng người qua lại, thậm chí còn thường xuyên tiếp đón lính tráng, ông lớn, sĩ quan, kể cả các đức ông đã có vợ như một chuyện hiển nhiên. Trong xã hội bấy giờ, “Chuyện ‘quan hệ’, sự ‘đổ đốn’ của đàn bà có chồng thuộc về thế giới tiểu thuyết.’


Márai Sándor cũng sử dụng thủ pháp miêu tả hiện thực đơn giản rõ nét để khắc họa nên những kiểu cách chung của xã hội với một hình thái vỏ bọc phô trương hệt như xã hội Anh từ thời Hội chợ Phù Hoa. Họ sống ở trong những căn nhà rộng rãi thoáng mát với những căn buồng khá ấm cúng được sử dụng thường xuyên ngoại trừ “salon” – phòng khách. Phòng khách được trang trí sang trọng, chăm lo cẩn thận và gần như không-một-ai có ý nghĩ bước vào căn phòng lạnh lẽo như ‘có người chết’ đó cả. Tất cả những gì họ để ý phải có lẽ là gương mặt trưng ra với bàn dân thiên hạ, còn bản thân những đứa trẻ của họ lại ngủ trong những căn phòng bé tí hon, hai ba đứa một phòng cùng cả cô gia sư. Những căn buồng tắm cả năm trời không được động đến phủ bụi tượng trưng cho việc vệ sinh nghèo nàn và bị ngó lơ đến mức nào.


Xã hội Hung thời kì này cũng có những định kiến khắt khe về công việc, con người. Trong khi những con người thuộc về tầng lớp thị dân dù chưa từng ‘trải đời’ cho lắm thì vẫn nghiễm nhiên được kính trọng, thì vẫn có những người bị ám ảnh gốc gác – ông bố đỡ đầu của tác giả dù đã được tiếp nhận thì ông vẫn luôn bị ám ảnh bởi cái gốc Saxon, cái tên Đức và dòng dõi quý tộc Áo. Hay bác của Márai đã thoát khỏi những ngăn trở định kiến xã hội để làm nghề mình yêu mến – nghề thợ thịt! Ấy thế mà người ta vẫn coi thường niềm yêu thích và gia đình một người thợ thịt chỉ vì họ cung cấp thịt cho bạn ăn hàng ngày, chỉ vì họ không trở thành luật sư bác sĩ hay những nghề gì đó được cho là đáng trọng vọng trong xã hội, để đến mức ngay trong dòng họ, họ cũng chẳng được nhắc đến là bao nhiêu. Hay bác Erno của chính tác giả trở thành một nhạc công mua vui ở những quán trọ khách sạn tồi tàn, và dù sống bằng chính sức lực và sở thích của mình, thì bác vẫn bị chính gia đình và người cháu xa cách coi thường, vì bác không phải ‘tiểu tư sản’, không thuộc cùng tầng lớp ‘thị dân’.


Những người lao động bị coi thường, thì những người nghèo khổ già cả còn bị khinh miệt hơn thế! Dù sự phân biệt giàu nghèo chưa rõ ràng đến mức ra mặt coi thường khinh miệt, những đứa trẻ vẫn được dạy ‘ nghèo khó không phải là sự hổ thẹn’, song chính trong những quyển sách giáo khoa lại mô tả rõ ràng hơn hết những khác biệt giữa người giàu và người nghèo, và học để làm người giàu. Họ an ủi và làm việc thiện bằng một thái độ bố thí, “nói về người nghèo như một bộ tộc xa lạ, hèn yếu bất lực và cần phải cho ăn.” – họ vẫn phát súp, phát bánh mỳ cho người nghèo, động viên những đứa trẻ đừng sợ khi đem vài xu bố thí, dù ngay cả trong nhà thờ hay trong những bữa tán gẫu thì họ vẫn nói về người nghèo như thể “có bệnh tật mà nguyên nhân là tại họ, vì họ không biết lo cho bản thân mình.’ Thậm chí cả những người già cả hoặc nghèo khổ có chút sức đều được xã hội nhận ra trách nhiệm và đưa vào những trại tế bần chua nồng đổ nát, chật như hũ nút để cuối năm vài người tiểu tư sản nào đó lại đem gương mặt tươi cười đến để tặng hoa quả ngâm hay vài thứ tương tự.


.Về giai cấp: Giai cấp không chỉ thể hiện rõ rệt ở những định kiến xã hội về nghề nghiệp và sự coi thường của những người tầng lớp cao đối với những người dân lao động, mà còn thể hiện ở rất nhiều những mặt khác. Đầu tiên là về sự kỳ thị đối với người Do Thái. Như đã nói, thời kỳ này Đế quốc Áo-Hung thực thi chính sách hết sức khắc nghiệt và tàn nhẫn với các dân tộc đến mức bị coi là “nhà tù của dân tộc”. Đối với những người Do Thái nghèo khổ, người ta coi họ như những “người da đen được thuần dưỡng” và thỉnh thoảng cho họ cái gì đó, để họ đáp lại “cảm ơn bà lớn/ông lớn” như để tạ ơn vì đã quan tâm đến những kẻ thấp hèn. Sự chênh lệch nặng nề về giai cấp khiến những gia đình Do Thái nghèo khổ không dám cầu thân và chấp nhận để bị thương hại. Trong khi đó những gia đình Do Thái giàu có và có điều kiện hơn đều bị soi mói và cho là bất nhã khi có những tiện nghi hơn người bản xứ, bị cho là kênh kiệu. Nếu có chuyện gì đó thì hầu như mọi người đều bất bình với những kẻ “thị dân” hơn mình mang dòng máu Do Thái trên kia hơn.


Những người hầu thời kỳ này bị coi thường đến mức còn có luật nói trắng ra rằng: ‘Người ở phải tôn trọng và phục tùng mệnh lệnh của gia chủ; những lời nói bà hành động có thể coi là xúc phạm giữa những người ngoài phạm vị gia đình, không thể trở thành căn cứ để chống lại gia chủ nếu trong đó có ý động chạm tới người ở về mặt danh dự.’ Nói trắng ra là họ có quyền mắng chửi nhục mạ người hầu – người hầu – nếu không hài lòng. Họ không thuộc về những người vô sản, không phải làm công ăn lương, mà là những người làm việc quần quật cả tuần với mức lương rẻ mạt mạt hạng hơn cả những nghề thấp kém nhất, chịu những nghi ngờ từ gia chủ dù làm việc luôn tay và thậm chí dù có làm ở đó cả chục năm nhưng già yếu thì vẫn bị tống cổ như thường. Họ ăn đồ thừa và thậm chí còn có những người làm được thuê để giúp các cậu chủ trẻ ‘giải quyết những vấn đề tuổi mới lớn’ để khi lỡ có thai thì nhận vài chục forint và bị đuổi – tất cả cay đắng chỉ để được ‘coi là người nhà’ và được ‘chăm sóc tuổi già’ ở nhà gia chủ.


Thậm chí sự phân biệt giai cấp còn xảy ra ở chính trong gia đình, khi người phụ nữ xuất thân ở một gia đình không được ‘cao quý’ và ‘thị dân’ như chồng – họ phải phục tùng mọi mệnh lệnh của chồng trong tình trạng tự ti về xuất thân của mình và thậm chí, có phần còn bất mãn khi người thân sinh ra họ đã làm nghề đó để họ phải chịu nỗi nhục đó. Trong khi đó, những người có tiền và có địa vụ trong xã hội lại được kính trọng một cách đặc biệt đến mức đôi lúc người ta còn không dám đến thăm dù đó là họ hàng, và vui như vàng khi được hạ cố ghé thăm hay giữ lại kỉ niệm cả đời về một chuyến đi chơi chỉ để có thể khoe với mọi người rằng trong dòng họ có người như thế!


.Về giáo dục: (Thật hài hước khi tôi nghĩ nền giáo dục của thế kỷ trước ử Hungary khá giống với Việt Nam hiện nay). Những môn học thể chất bị coi thường – môn đó chỉ là được coi là môn giải phóng tâm lý khỏi bài vở nặng nề để chạy nhảy giãn gân cốt. Trong khi đó, những môn toán, văn, tiếng Latinh,…. Nặng nề khổ nhọc. “Môn lịch sử khó chịu, khó tin, có chủ ý và giả dối! Người ta biết cách làm học sinh thù ghét những đề tài hấp dẫn, như thực vật học và khoáng học bằng những hệ thống phức tạp đến thế nào? Làm cách nào mà họ biến được môn hình học đơn giản và dễ thấu suốt thành hệ thống chằng chịt những công thức không thể hiểu nổi? Dồn nén những quy luật của các hiện tượng vật lý thành màn xảo thuật của sự cần cù học thuộc lòng?”


Các trường học nghiêm ngăt và đánh giá học sinh qua địa  vị gia đình hoặc địa vị người bảo hộ. Trong chính các trường học nội trú, học sinh sống hai cuộc đời: Một chính thức với kiểm gia, giáo lý, phục tùng  diễn ra công khai dưới con mắt cú vọ bề trên, cuộc đời còn lại ẩn giấu bên trong dễ chịu hơn: đạo đức giả, đồng lõa và luật ‘rừng’. Tất cả đều được giáo dục giống nhua như một cái máy, đều phải cùng một đẳng cấp được lựa chọn,…. (Nói chung là khá ngột ngạt.)


.Về tôn giáo, đức tin: Tôn giáo thời kì này được coi như là một thói quen – tất cả những mộ đạo, những hoạt động tôn sùng đều diễn ra một cách nghiễm nhiên và không ai thắc mắc, tuy nhiên trên thực tế có mộ đạo hay không lại là chuyện khác. Đối với dân, Đạo giống như một bộ Luật Dân Sự nào đó cần tuân theo. “Chúng tôi đến nhà thờ như đến một viện khử trùng tâm hồn nào đó. Tôn giáo là một bộ phận của cuộc đời chúng tôi, là một trong những tư duy cơ bản, giống như Tổ quốc hay nguyên lý tài sản cá nhân. Chúng tôi cũng không nghi ngờ gì về việc lòng kính trọng tôn giáo, sự ngoan đạo máy móc này cũng chẳng liên quan gì đến niềm tin đích thực.”


Đặc biệt hơn cả đó là những trang viết về sự vật lộnđi tìm bản ngã, đi tìm con người của chính tác giả!


“Trong cuộc đời không xảy ra những ‘việc lớn’. Nếu sau này chúng ta nhìn lại để tìm giây phút khi một điều gì đó mang tính quyết định, không thể đảo ngược đã xảy đến với ta – một ‘ấn tượng’ hay ‘tai họa’ chi phối cuộc đời ta sau này, đa phần ta chỉ bắt gặp những dấu vết khiêm nhường ngần ấy hoặc đến ngần ấy cũng không. Thực chất không có ‘ấn tượng’ nào khác, chỉ có ‘gia đình’; không có ‘bi kịch’ nào khác, chỉ có khoảnh khắc bạn cần quyết định, bạn có ở lại trong gia đình và trong những biến thể của cái vòng tròn lớn đang rộng ra của nó, trong ‘giai cấp’, với những người cùng một quan điểm, hay bạn đi con đường của riêng mình, và bạn biết từ nay bạn chỉ mãi mãi một mình, bạn tự do, nhưng trở thành con mồi của tất cả mọi người, và chỉ bạn mới có thể tự giúp mình….”


“Con người không thể ngã giá đam mê của mình, kẻ khác có thể coi đó là ‘nghiệp’, rồi gắn cho nó những biểu tượng tùy thích, nhưng tôi nghĩ tên gọi trần trụi và thô kệch của nó vẫn là đam mê… Người ‘hạnh phúc’ không sáng tạo; một người hạn phúc chỉ đơn giản là hạnh phúc…”


Lời văn chắc chắn đầy sức gợi tả, những suy nghĩ suy tư sâu sắc đầy tính triết lý và bao quát, logic dường như đối chọi với cả thế giới. Đến với Márai, đến với những triết lý tưởng chừng đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, đến với một thế giới gần như cô độc trong tâm tưởng! Kết lại quyển I là sự kiện Thái tử Franz Ferdinand – con trai của Franz Josef I, Hoàng đế Áo và vua Hungary – của triều đình Áo bị ám sát vào ngày 28/6/1914 tại Serbia. Một tháng sau đó, Đế quốc Áo-Hung tuyên chiến với Serbia trong khi các cường quốc trên thế giới lúc đó lại đứng về phía Serbia, dẫn đến Thế chiến thứ Nhất (1914-1918).





1 nhận xét:

  1. Mình rất mừng vì Márai không dễ đọc, vây mà bạn đã đọc khá kỹ và có những nhận xét xác đáng. Xin bạn cho phép "mang" bài nay về FB của mình để giới thiệu với mọi người nhé.
    Khi nào bạn sẽ viết tiếp về quyển 2. ?
    Dịch giả: Giáp Văn Chung

    Trả lờiXóa