
Nhà văn Nam Cao
từng thể hiện quan điểm sáng tác của mình rằng: Một tác phẩm chân
chính phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa cao cả, vừa
đau đớn vừa phấn khởi. Nó ca ngợi
tình thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm người gần người hơn. Chính vậy! Một tác phẩm chỉ chân khi chính trong
nó chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc. Và nếu đã kể đến
những tác phẩm văn học có giá trị trên thi đàn văn học Anh quốc nói
riêng và của thế giới nói chung, chúng ta không thể không nhắc đến
tác phẩm thứ hai mang tên Oliver Twist của một trong những nhà văn hiện
thực châm biếm vĩ đại nhất thế kỉ 19 thời Nữ Hoàng Victoria cùng
với William Makepeace Thackery (Hội chợ Phù Hoa): Charles Dickens.
Charles Dickens
sinh ngày 7 tháng 2 năm 1812 ở cùng Hampshire thuộc Tây Nam Anh quốc, hơn
William Makepeace một tuổi. Ông là con thứ hai trong gia đình 8 anh em. Năm
tuổi ông chuyển đến sống gần London nhưng rơi vào cảnh khố khó. May
mắn thay, 5 năm sau ông được kế thừa gia sản từ một người họ hàng và
tiếp tục con đường học vấn. 16 tuổi ông vào làm thư kí cho tòa án
và nghị viện và viết bài cho tờ Thời sự Buổi Sáng. Năm 1842 ông đã
có cơ hội được sang Mỹ và trở về với tạp chí đã vạch trần sự
khốn nạn của chế độ nô lệ ở Mỹ thời bấy giờ. (Biết thêm về chế
độ này, đọc Túp lều của bác Tom của Harriet Beecher Stowe). Ông bắt
đầu biết văn từ năm 1833 và Oliver được biết đến năm năm sau đó.
Cuối thế kỉ 15
khi nhu cầu len dạ tăng cao, các nhà quý tộc Tây phương bắt đầu nhòm
ngó đến lượng vàng bạc châu báu và trân phẩm ở phương Đông cũng với
những phát kiến địa lý vĩ đại của nhà hàng hải lịch sử Cristoforo
Colombo đã mở ra một kỉ nguyên mới, tạo tiền đề cho các cuộc di dân,
xâm lược, đặt nền tảng cho chủ nghĩa đế quốc, đồng thời tạo cơ sở
cho sự thành lập của hàng loạt các công ty đa quốc gia và thúc đẩy
sự nổi lên của các trùm tư bản. Đến thế kỉ 17 khi nền kinh tế Anh
bắt đầu phát triển mạnh mẽ, nhu cầu len dạ tăng cao đã khiến các
các địa chủ, quý tộc đuổi dân và tá điền đi để phát triển nông
trại chăn nuôi cừu. Người lao động đổ về
cac thành thị tạo nên sự rối loạn về việc làm, nạn thất
nghiệp và đói kém tăng cao, lại bị ba tầng áp bức nặng nề: các quý
tộc phong kiến, thuế má của triều đình và các địa chủ tư bản, đã
gây nên những mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội. Cùng thời gian đó, chính
các địa chủ nhỏ và các nhà tư bản cũng vô cũng bất mãn với triều
đình phong kiến nhiều quy tắc luật lệ kìm hãm sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản đang trong đà tiến tới, nên đã kết hợp với nông dân
làm nên cuộc Cách mạng Tư sản (1640-1689). Sau cuộc chính biến
1688-1689 biến Anh quốc từ một nước Cộng hòa chuyển sang Quân Chủ Lập
Hiến, bộ mặt của Anh quốc đã thay đổi rõ rệt: các đạp lí dần bị
mài mòn, giai cấp giàu nghèo trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.
Chính cuộc
Cách mạng Tư sản thế kỉ 17 đã đặt nền tảng cho sự phát triển chủ
nghĩa tư bản ở Anh quốc và là bước đệm lớn nhất tạo nên cuộc Cách
Mạng Công Nghiệp thay đổi toàn bộ lịch sử nhân loại! Sau Cách Mạng Tư
Sản, khi địa vị của giới “quý tộc mới” xuất thân từ các địa chủ
và các trùm tư bản muốn dung tiền mua danh “thượng lưu” trở nên vững chắc,
cùng với những quý tộc phong kiến lúc này bắt đầu muốn kiếm chác
để “dát vàng” lại huy hiệu dòng họ và số lượng nông dân, công nhân
bị đuổi đi lấy chỗ phát triển trang trại nuôi cừu lấy len dạ đã
thúc đẩy quá trình sáng tạo và tiến đến cuộc Cách Mạng Công Nghiệp
cuối thế kỉ 18 – đầu thế kỉ 19. Đi cùng với sự phát triển vượt bậc
của kinh tế là những xáo trộn vô cùng to lớn trong xã hội: phân cấp
giàu nghèo rõ rệt, đạo lý băng hoại thối nát, Anh Giáo và Thiên
Chúa giáo trở thành những món trang sức hoặc thành công cụ thống
trị con người, nạn thất nghiệp gia tăng,... Đặc biệt là sau khi cuộc
chiến Waterloo với Hoàng đế Pháp Napoleon Bonaparte đã khiến nhà nước
buộc phải thải hồi hàng nghìn binh lĩnh thất nghiệp,.... Tất cả đã
tạo nên một xã hội Anh quốc rối ren, phù phiếm, tiền quyền thống
trị,... Đứng trước một xã hội rối loạn vô cảm, những nhà văn nhân
đạo bắt đầu lên tiếng bằng ngòi bút và câu chuyện của mình.
Trái ngược hẳn
với William – nhà văn lãng mạn hiện thực châm biếm cùng thời ông với
tác phẩm lớn nhất là Hội Chợ Phù Hoa chủ yếu nhằm đến việc tố
cáo và vạch trần bộ mặt phù phiếm giả dối của giai cấp tư sản và
quý tộc, Charles Dickens đã xây dựng Oliver Twist xuất hiện ở những nơi
nghèo nàn và tồi tàn nhất trong xã hội nước Anh, nơi mà tất cả luân
lí đều bị những kẻ khoác áo thầy tu và cầm gậy ba-toong mài chèn
ép đến độ khốn khổ. Ông đã vẽ lên một khung cảnh chân thực nhất về
sự tồi tàn khổ cực của người dân thấp cổ bé họng, sống một cuộc
sống lầm lũi dưới đế giày của bọn cầm quyền, bị áp bức bởi những
giáo lý khắc điều vốn từ lâu đã thành công cụ điều khiển tinh thần
của lũ quý tộc; ở nơi mà cậu bé khốn khổ Oliver mang theo tội danh
nặng nề là một đứa trẻ mồ côi và bị coi là quỷ dữ khi xin thêm một
chút cháo vì quá đói. Quá khổ sở vì bị bóc lột và đối xử tàn
tệ, Oliver trốn lên London và một lần nữa cậu bé rơi vào hang ổ của
bọn trộm cắp đầu đường xó chợ gian manh. Nhưng sau đó em được những
người tốt bụng giúp đỡ, trốn thoát khỏi nanh vuốt của bọn tội phạm
và tìm ra chân tướng xuất thân của mình, rồi sống một cuộc sống
hạnh phúc được giáo dục trong tình yêu thương và lí lẽ cùng với ông
lão ân nhân tốt bụng.
Như ở trên tôi
đã nói, một tác phẩm chân chính phải là một tác phẩm có giá trị
nhân đạo. Trong Oliver, giá trị đó được thể hiện rõ nét qua ba điểm.
Điểm thứ nhất,
đó là tố cáo xã hội thối nát bị tiền quyền thống trị một cách
chặt chẽ và chi phối từ tổ chức đến cá nhân, được thể hiện qua
phiên tòa phân xử bất công, người dân không được có ý kiến, và tiêu
biểu nhất là qua hình ảnh nhà tế bần với ông thầy tế và những lão
quan chức tham tiền hám của. Chúng đẩy những người nghèo khổ bần
cùng chỉ có duy nhất nơi nương tựa là nhà tế bần để kiếm miếng ăn
đến bờ vực của sự chết đói; chúng coi những người nghèo khổ là
những kẻ thấp kém vô giá trị chỉ biết ăn không ngồi rồi chực chờ
đồ cứu tế của nhà tế bần và làm như việc nghèo khổ là tội lỗi
của họ; rằng chúng đã tốt lắm rồi khi ban cho họ ba bữa cháo loãng
trong chén con mỗi ngày. Những lời lẽ sắc bén châm biếm đã biến bức
tranh về định nghĩa của “lòng nhân đạo” của những kẻ ngồi trên vàng
bạc nhưng có trái tim của quỷ và mặt nạ giả nhân giả nghĩa trở nên
vừa buồn cười vừa đáng căm phẫn. Đồng thời ông cũng tố cáo sự tàn
nhẫn của chế độ đó khi tước đi cả quyền sống, phát triển của những
đứa trẻ để nhấn mạnh một điều rằng: xã hội phải được tổ chức lại
để cứu lấy tuổi thơ. Điều kì lạ là dù bức biếm họa tàn nhẫn này
vẫn được xuất bản đã chứng tỏ một điều: chủ nghĩa tư bản không sợ
phê phán, chỉ yêu cầu cải cách – vì điều đó gieo vào lòng người
niềm tin rằng mọi chuyện sẽ còn thay đổi, còn cứu vãn được, không
cần phải cách mạng hay đổ máu. Điều này là một bất lợi: Charles
Dickens là một người “cải lương”, phong cách viết mang vẻ cổ tích và
kết thúc trong mơ đã giúp tác phẩm của ông có giá trị tố cáo cao
đồng thời lại cũng xoa dịu lòng người khi thấy được những kết cục
viên mãn.
Nếu có ai từng
đọc truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao sẽ hiểu sâu sắc định lý:
khốn nạn hóa. Giá trị nhân đạo thứ hai của Oliver Twist được Charles
Dickens thể hiện qua điều này: xã hội băng hoại đẩy con người ta đến
đường cùng của sự nghèo khổ, và bị khốn nạn hóa. Những câu tả
ngắn gọn sắc nét chân thực về những khu ổ chuột cùng khổ, sự khắc
khổ của cuộc sống và phác họa lòng tham cùng lòng tàn nhẫn của con
người phải sống trong bóng tôi đã trở thành khung nền giải thích
được lí do những nhân vật như Fagin, Monks, Sikes, Nenxi,...trở nên tàn
nhẫn và độc ác đến mức đôi lúc người đọc gần như không còn thấy
được nhân tính trong những kẻ đó. Chúng bất chấp luân thường đạo lí,
làm những chuyện trộm cướp bẩn thỉu để sinh tồn, rồi dần dà biến
nó thành bản năng và ý nghĩa sống. Nhưng điều khiến ông trở thành
nhà nhân đạo không phải chỉ nằm ở việc khốn nạn hóa nhân vật cùng
khổ của mình dưới móng vuốt của lũ tư bản, mà là ông đã khai thác
được những cảm xúc sâu thẳm trong tâm hồn những kẻ cùng khổ đó.
Chẳng hạn như Nenxi, vì một cảm xúc hối hận hay gì đó, không ai biết,
nhưng lại âm thầm giúp đỡ Oliver chống lại bè lũ của chính mình dù
phải trả giá bằng sinh mạng; những kẻ vô nhân tính như Fagin, Sikes
đến cuối đời cũng phải chịu đòn trừng phạt của tòa, của xã hội,
và mạnh mẽ nhất: đó là lương tâm của chính bọn chúng.
Điều cuối
cùng, đó chính là ca ngợi lòng nhân đạo và thương người giữa người
với người. Những người như ông Brownlow, bà Maylie hay cô Rose,... đã
khẳng định niềm tin mãnh liệt vào bản chất tốt đẹp của con người
giữa bóng tối thối nát khốn nạn, bày tỏ sự cảm động trước tình
yêu không vụ lợi và sự giúp đỡ không cần hoàn trả. Đặc biệt còn là
lời ca ngợi đến lòng dũng cảm không bị khuất phục của Oliver cũng
như những người giúp đỡ cậu, và là niềm hy vọng vào sự nổi dậy
đấu tranh đòi lại sự bình đẳng và mơ ước của con người. Bút pháp
cổ tích độc đáo của Charles Dickens đã xây dựng nên một thế giới gần
như trong cổ tích, nơi những đứa trẻ đọc vì đam mê cấu trúc huyền ảo
đầy chất trẻ thơ và nhận thấy được những chân lý công lý luôn thắng
bạo tàn, trong khi người lớn đọc để thấy tâm hồn như trẻ lại, tiếp
thêm niềm tin vào con người và giúp tâm hồn trở nên phong phú yêu đời
hơn.
sao ma coppy ve k dc rk?
Trả lờiXóa