Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

[80 ngày vòng quanh thế giới] Chương 24

Chương 24: Vượt qua Thái Bình Dương


Vậy là chuyện xảy ra với chiếc thuyền hoa tiêu khi còn ở Thượng Hải khá dễ đoán. Những tín hiệu cảnh báo của chiếc Tankadere đã lọt vào tầm nhìn của thuyền trưởng tàu khách Yokohama, nhờ đó đã lái chệch hướng tàu để tránh chiếc thuyền nhỏ. Phileas Fogg, sau khi trả công cho John Busby như đã thoả thuận, ngài còn thưởng thêm một món hào phóng những năm trăm năm mươi bảng, rồi leo lên tàu khách với Aouda và Fix; họ ngay lập tức xuất phát đến Nagasaki và Yokohama.


Họ đến đến nơi vào sáng ngày 14 tháng mười một. Phileas Fogg không tốn lấy một phút để lập tức bắt tàu Carnatic, nơi mà ngài biết được rằng Passepartout, anh chàng người Pháp, đã quả thực rời tàu một ngày trước đó. Aouda đã vui mừng biết bao nhiêu, và có thể cũng chính ngài nữa, dù ngài chẳng mảy may thể hiện chút cảm xúc nào.


Chiếc tàu khách San Francisco được thông báo là sẽ nhổ neo tối hôm đó, và việc tìm kiếm Passepartout trở nên cấp thiết – tốt hơn hết là không chậm trễ nữa. Ngài Fogg lập tức đến tìm đại sứ quán Pháp và Anh, dù thừa biết chẳng nên cơm cháo gì. Và, sau khi hoài công lang thang khắp các nẻo đường ngõ ngách, ngài bắt đầu nghĩ việc tìm kiếm cậu chàng gia nhân của mình chỉ là chuyện vô vọng mà thôi. Nhờ tình cờ chăng, hoặc có thể là một loại linh cảm nào đó đã dẫn ngài đến nhà hát của ngài Batulcar Đáng Kính. Ngài chắc chắn là đã không nhận ra nổi Passepartout trong bộ đồ hoá trang kì dị quái đản; nhưng sau rốt, khi nằm thẳng cẳng như con cá chết trên sân khấu, chàng trai lại nhìn thấy ông chủ của mình ở ghế khán đài. Anh đã không thể kiềm chế việc nhìn chằm chằm để xác nhận sự thực, và chính điều đó đã khiến cái tháp-người rơi rụng như quả thối trên sân khấu.


Passepartout nghe lại mọi chuyện từ Aouda về chuyến hành trình từ Hồng Kông đến Thượng Hải trên chiếc tàu Tankadere, cả về ngài Fix nữa.


Passepartout mặt không đổi sắc khi nghe thấy cái tên này. Anh nghĩ rằng chưa đến lúc thuật lại chuyện đã xảy ra giữa anh và tay thám tử; và, để giải thích cho sự vắng mặt của mình, anh đơn giản cầu ngài Fogg khoan dung cho việc say thuốc phiện trong quán mối ở Hồng Kông.


Ngài Fogg nghe anh trình bày một cách lạnh lùng và không nói tiếng nào; thế rồi ngài cấp cho chàng gia nhân một ít tiền mặt để sắm sửa vài món quần áo cho xứng với địa vị của anh. Trong tròn một giờ đồng hồ cậu chàng người Pháp đã thoát khỏi cái mũi dài lố bịch và cặp cánh màu mè, đồng thời quên tiệt luôn thần Tengu bảo trợ Mũi Dài.


Chiếc tàu khách chuẩn bị nhổ neo từ Yokohama đến San Francisco thuộc sở hữu của Tập Đoàn Vận Tải Thái Bình Dương, và được gọi là General Grant. Nó là một chiếc tàu khách có bánh chèo lớn, nặng tới hai ngàn năm trăm tấn, được trang bị hết sức tiện nghi và tốc độ nhanh chóng. Trục máy khổng lồ nhô lên giữa boong tàu, một đầu boong có trục ròng rọc lớn quay lên xuống liên tục theo vòng tròn. Đầu kia boong tàu được lắp đặt hệ thống dây dẫn kết nối trực tiếp với các bánh chèo. Chiếc General Grant được dựng ba cột buồm lớn đón gió hỗ trợ tốc độ của tàu. Với tốc độ mười hai hải lý một giờ, nó có thể vượt đại dương chỉ trong hai mươi mốt ngày. Chính vậy mà Phileas Fogg hi vọng ngài có thể xuống San Francisco vào ngày mồng hai tháng mười hai, New York vào ngày mười một, và London vào ngày 20—như vậy là sẽ sớm được vài giờ đồng hồ trước hạn cược cuối vào ngày 21 tháng mười hai.


Boong đã chật cứng hành khách, gồm người Anh, người Mỹ, phần lớn đều hướng đến California, một vài sĩ quan của công ty Đông Ấn đang trong kì nghỉ vòng quanh thế giới. Chẳng có mấy chuyện to tát xảy ra trong hành trình; chiếc tàu khách thỉnh thoảng hơi rung lắc chút đỉnh do lực đẩy của mấy chiếc bánh chèo khá lớn. Ngài Fogg vẫn điềm nhiên và chính xác như bao giờ hết. Bạn đồng hành trẻ của ngài ngày càng bị ngài cuốn hút, không phải chỉ về mặt ơn nghĩa mà còn về mặt tình cảm cá nhân; bản chất trầm lặng nhưng hào phóng của ngài khiến nàng bị ấn tượng mạnh mẽ hơn nàng nghĩ; và nàng đã gửi gắm tình cảm một cách gần như vô thức đến với người bảo hộ nàng, dù điều đó hẳn không ảnh hưởng đến ngài bao nhiêu. Aouda hết sức chú tâm vào kế hoạch của ngài Fogg, và nàng trở nên nóng nảy mỗi khi có bất cứ ngoại sự bất thường nào có vẻ sẽ ảnh hưởng đến chuyến đi của ngài.


Nàng thường xuyên trò chuyện với Passepartout, và chẳng mấy chốc anh chàng đã nhận thấy được mối tình trong trái tim nàng thiếu phụ trẻ; và, trong vai trò một gia nhân nhất mực trung thành, anh ca ngợi sự chính trực, lòng hào hiệp và sự thành tâm của Phileas Fogg không biết mệt. Anh dành lòng tận tuỵ an ủi những nghi ngờ trong lòng Aouda về sự thành công của chuyến đi, trấn an nàng rằng phần khó nhất đã qua, và giờ họ đã để lại sau lưng những đất nước tuyệt vời là Nhật Bản và Trung Quốc, và đang trên đường trở lại thế giới văn minh. Một chuyến tàu hoả từ San Francisco đến New York, rồi một chuyến tàu khách tốc hành từ New York đến Liverpool, cố nhiên đủ để hoàn tất chuyến đi vòng quanh thế giới vốn bất khả thi này trong thời gian thoả thuận.


Vào ngày thứ chính từ lúc rời Yokohama, Phileas Fogg đã đi qua chính xác một nửa trái đất. Chiếc General Grant đi qua kinh tuyến một trăm tám mươi độ, cùng kinh tuyến với London, vào ngày hai mươi ba tháng mười một. Quả thực là ngài Fogg đã dùng hết năm mươi hai trong tổng số tám mươi ngày đi vòng quanh trái đất, giờ chỉ còn lại hai mươi tám ngày. Nhưng, dù đang ở nơi cùng múi giờ với London, ngài đã hoàn thành hai phần ba chuyến du hành; ngài đã buộc phải đi long vòng từ London đến Aden, từ Calcutta đến Singapore, từ Singapore đến Yokohama. Nhẽ ra ngài đã có thể đi thẳng một đường theo kinh độ năm mươi, cùng tuyến với London, thì toàn bộ khoảng cách chỉ vỏn vẹn có mười hai ngàn dặm; nhưng ngài đã bắt buộc phải đi con đường bất thường dài những hai mươi sáu ngàn dặm, và đến hai ba tháng mười một ngài đã hoàn thành mười bảy ngàn năm trăm dặm rồi. Nhưng giờ đường đã bẻ thẳng, và Fix không còn là tnagr đá vướng chân họ nữa!


Cũng vào ngày 23 tháng 11, Passepartout tình cờ phát hiện một chuyện đáng vui mừng. Hẳn mọi người còn nhớ rằng anh chàng thực thà đã khăng khăng không chịu chỉnh lại chiếc đồng hồ cha truyền con nối của dòng họ chạy theo giờ London, và cho rằng giờ của những nước còn lại đều là sai và không đáng tin cả. Lúc này đây, vào chính ngày hôm đó, dù cả khi anh không hề mó máy vào chiếc đồng hồ, anh phát hiện ra rằng nó chạy giờ trùng khớp chính xác với đồng hồ đo đạc của tàu. Chiếc thắng của chàng ta hơi nực cười một chút. Nhưng dù sao cậu chàng cũng sẽ rất khoái nếu Fix có mặt trên tàu để chàng ta khoe khoang chiến thắng đó.


“Kiếp lang thang kể tôi nghe biết bao câu chuyện,” Passepartout lặp lại, “về những kinh độ vĩ độ, mặt trời, và mặt trăng! Mặt trăng, hẳn thế! Những chuyện nhảm nhí như ánh trăng phơi mặt nước! Nếu lắng nghe những kiểu người như thế, thì sẽ chẳng giữ được cái gì cả! Tôi biết là một ngày rồi mặt trời cũng phải tự than điều chỉnh cho khớp với đồng hồ của tôi mà!”


Passepartout rất kiêu hãnh rằng, nếu mặt đồng hồ của anh được chia ra hai mươi tư giờ như đồng hồ kiểu Ý, thì sẽ chẳng cần phải reo mừng vì chuyện thế này; bởi lẽ lúc đó thay vì chỉ chín giờ sáng như bây giờ, nó sẽ chỉ chín giờ tối, và như thế sẽ biết được hai mươi mốt tiếng đầu tiên sau nửa đêm khác biệt giữa giờ London và giờ ở kinh tuyến một trăm mười tám. Nhưng nếu Fix có đủ khả năng giải thích hiệu ứng vật lý đơn giản này, Passepartout sẽ không thừa nhận chuyện đó kể cả có hiểu được chăng nữa. Hơn hết thảy, nếu tay thám tử có mặt trên tàu lúc đó, Passepartout sẽ tán những chủ đề khác bằng một thứ cung cách hoàn toàn khác biệt.


Mà lúc đó Fix đang ở đâu?


Thực ra anh ta cũng đang có mặt trên tàu General Grant.


Khi đến được Yokohama, tay thám tử cáo biệt với ngài Fogg với lời gửi gắm hi vọng được tái kiến trong ngày, rồi cắm cổ lao đến đại sứ quán Anh, nơi mà cuối cùng anh ta cũng cầm được trong tay cái lệnh bắt quái quỷ. Nó đã đuổi theo anh suốt từ Bombay, đến cùng chiếc Carnatic – chiếc tàu khách mà đáng lẽ bản thân anh đã bắt như dự kiến. Có thể tưởng tượng được sự thất vọng của Fix khi anh ta nhận ra rằng giờ lệnh bắt đã hoàn toàn vô dụng. Ngài Fogg đã rời đất thuộc quản chế của Anh, và giờ phải viện đến lệnh dẫn độ!


“Hừ hừ,” Fix nghĩ sau một khắc giận dữ, “lệnh bắt của mình không ăn nhằm gì ở đây, nhưng sẽ có tác dụng trên đất Anh quốc. Rõ là tay tinh ranh kia định trở về tổ quốc của hắn, vì nghĩ hắn đã cắt đuôi hoàn toàn được lũ cảnh sát. Tốt! Mình sẽ bám theo hắn ta vượt qua Đại Tây Dương. Còn về tiền bạc, cầu chúa lòng lành đừng để hắn phóng tay tiêu hết! Nhưng gã đã chi trả bạt mạng trong cuộc hành trình, các món thưởng, mấy vụ kiện cáo, tiền bảo lãnh, con voi quỷ quái, và thập cẩm các loại phụ phí, hơn tới năm ngàn bảng. Nhưng dù sao thì, Ngân Hàng giàu bỏ mẹ!”


Ý đã quyết, anh lên tàu General Grant, và đợi sẵn đó khi ngài Fogg và Aouda xuất hiện. Kinh hoàng hơn, anh ta nhận ra Passepartout, dù trong bộ phục trang nhà hát ngớ ngẩn. Anh ta mau lẹ trốn kĩ trong cabin cá nhân để tránh những lời giải thích gượng gạo, và hi vọng không bị gia nhân của ngài Fogg nhận thấy giữa số lượng hành khách khổng lồ trên tàu.


Nhưng vào đúng cái ngày đó, anh ta đụng mặt Passepartout ở boong trước. Ngay tức khắc, anh chàng không một lời lao bổ về phía tay thám tử, túm cổ anh ta và bắt đầu quất anh ta túi bụi bằng những cú đá bay điệu nghệ và những đòn kết hợp ra trò giữa kĩ nghệ vượt trội của dân Pháp và kỹ năng đấm bốc của dân Anh, mặc cho một đám người Âu Mỹ tròn mắt bàng hoàng đứng nhìn.


Khi Passepartout đã đánh đủ, anh thấy bản thân mới thoải mái và nhẹ nhõm bao nhiêu. Fix bò dậy trong tình tạng tả tơi bết xê lết, và nhìn chòng chọc vào Passepartout, lạnh lùng nói, “Anh xong chưa?”


“Tạm thời, rồi.”


“Vậy tôi có vài lời muốn nói với anh.”


“Nhưng tôi…”


“Vì quyền lợi của chủ anh.”


Passepartout có vẻ hơi yếu thế trước sự lạnh lùng của Fix, nên lặng lẽ đi theo anh ta, và họ ngồi xuống một khoảng cách xa nhưng hành khách khác.


“Anh đã tẩn tôi một trận đã đời,” Fix nói. “Tốt lắm, tôi chấp nhận nó. Giờ thì nghe tôi đây. Từ trước đến nay tôi luôn đối đầu Fogg, nhưng giờ tôi sẽ tham gia ván cược cùng ông ta.”


“À há!” Passepartout thốt lên; “anh đã hiểu rằng ngài ấy là một người trung thực rồi?”


“Đời nào,” Fix trả lời lạnh nhạt, “Tôi nghĩ hắn là một gã đểu giả. Hừ! Đừng có chặn họng tôi, để tôi nói. Miễn là Fogg còn trên đất thuộc Anh, mối quan tâm hàng đầu của tôi là giữ chân ông ta đến khi lệnh bắt đến. Tôi đã thử mọi trò để ngăn ông ta lại. Tôi lôi đám tu sĩ ở Bombay làm phiền ông ta, tôi chuốc say anh ở Hồng Kông để tách anh khỏi ông ta, và tôi khiến ông ta lỡ tàu khách Yokohama.”


Passepartout lắng nghe, nắm tay nghiến chặt.


“Giờ thì,” Fix tiếp tục, “Fogg đang có vẻ định trở lại Anh quốc. À thì tôi sẽ theo ông ta về. Nhưng từ lúc này về sau tôi sẽ tránh thành tảng đá chặn đường ông ta hết mức có thể. Tôi đã đổi cách chơi, anh thấy đấy, và đơn giản vì quyền lợi của tôi thôi. Ý định của anh cũng giống như tôi, bởi chỉ trên đất Anh anh mới có thể biết được anh đang phục vụ một tội phạm hay một công dân lương thiện.”


Passepartout lắng nghe Fix một cách chăm chú, và hiểu rằng anh ta đang nói sự thật.


“Chúng ta vẫn là bạn?” Viên thám tử hỏi.


“Bạn bè?---ồ không,” Passepartout đáp lời; “nhưng đồng minh, có thể. Nhưng chỉ một dấu hiệu phản bội tí tẹo thôi tôi cũng sẽ bẻ cổ anh.”


“Đồng ý,” viên thám tử đáp hờ hững.


Mười một ngày sau đó, ngày ba tháng mười hai, chiếc tàu khách General Grant cập cảng vịnh Golden Gate.


Ngài Fogg không tiết kiệm cũng chẳng chậm trễ một ngày nào.
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét