“Cha và con” của Cormac McCarthy thuộc dòng truyện kết cấu
đơn giản, khá dễ đọc, giết thời gian và tĩnh tâm rất tốt, đặc biệt giúp thư
giãn nhờ giọng văn bình thản ổn trọng ngay cả khi nội dung dữ dội và u ám. Cốt
truyện cũng khá quen thuộc, vào một ngày hậu tận thế khi thế gian chẳng còn mấy
bóng người, có một cặp cha con chật vật di chuyển xuống phía Nam. Họ gặp vài
chuyện trên đường, và kết thúc là người cha thì chết còn người con thì gặp một
gia đình có vẻ là tốt và lại tiếp tục trăn trở sống cùng họ, tiếp nối dòng hi vọng
mong manh.
Điều thú vị nhất của cuốn tiểu thuyết mỏng này có lẽ là sự đối
lập đan xen vào nhau một cách hài hoà và sầu thảm. Sự đối lập dễ nhận thấy nhất
có lẽ là dòng chảy khoan thai của ngôn ngữ xuyên suốt câu chuyện, tựa thực tựa
hư, lặng lẽ mà khách quan mô tả lại một câu chuyện mang tính chất dữ dội và
nghiệt ngã. Có lẽ trên thế giới này không mấy ai có thể dùng ngôn ngữ dịu dàng
đến vậy để mô tả sự khốc liệt đáng sợ đến thế. Nhưng đó chỉ là một phần. Sự đối
lập lớn nhất là nằm ở hai nhân vật chính không danh phận tên tuổi mà chúng ta
chỉ biết được mối quan hệ giữa họ là cha và con. Thoạt nhìn, chúng ta có thể dễ
dàng phán định rằng đứa trẻ trong sáng và ngây thơ hiển nhiên là niềm hi vọng của
người cha, không chỉ thông qua tình yêu thương che chở hết mình của người đàn
ông đối với con trong từng khung cảnh từng tình huống truyện, mà còn nằm ở
chính tiếng lòng của ông khi nói tự nhủ rằng đứa trẻ là điều duy nhất ngăn cản
ông đến với cái chết. Vậy là từ hình ảnh này, chúng ta cũng thừa sức suy diễn về
ý nghĩa của truyện, rằng đứa trẻ là một biểu tượng của sự ngây thơ, lòng tin tưởng
vào tương lai, là ánh sáng hi vọng nhỏ nhoi tiếp tục quẫy đạp trong thế giới
tàn khốc để tiến lên phía trước, vân vân và mây mây. Nhưng nếu chỉ thế thì phải
nói là truyện chẳng có gì mới mẻ ngoại trừ phong cách văn chương, thậm chí là tầm
thường, vì trên đời này thiếu gì những nhà văn đem trẻ con ra để làm biểu tượng
của hi vọng?
Nhìn sâu vào trong một chút, để ý chi tiết truyện hơn một
chút thì ta mới thấm được cái đối lập sâu sắc hơn của truyện. Cái tôi hứng thú
không phải là sự ngây thơ bản năng của đứa trẻ đã níu giữ tính mạng của người
cha – một điều tôi thừa nhận là được mô tả hết sức sâu sắc và “thấm” – mà là sự
phát triển đối lập trong cảm xúc của hai người.
Người cha – một người đàn ông trưởng thành, dễ dàng được gắn cho cái biểu
tượng của sự thực tế, thấu hiểu cuộc đời và đầy kinh nghiệm, đặc biệt là thông
qua những cách xử lý tình huống cứng rắn, hay nói thẳng ra là tàn nhẫn một cách
có thể thông cảm – nhưng lại mới chính là người mang hi vọng mãnh liệt nhất, chấp
nhất nhất với cuộc sống. Người ta nói rằng người lớn thì thực tế và dễ mất hi vọng
do thấu hiểu hoàn cảnh, thế nên về cơ bản người lớn dễ rơi vào tình trạng suy sụp,
tuyệt vọng hơn những đứa trẻ vốn luôn mang cái mác hi vọng vào tương lai nhiều.
Nhưng hoàn toàn không phải thế - bất chấp đứng trước hoàn cảnh nghiệt ngã đau đớn
đến như vậy, thì chính người đàn ông, người cha đó, lại có niềm tin tưởng mãnh
liệt hơn cả vào cái gọi là “hi vọng vào tương lai” mà ông đã hiện thực hoá vào
đứa con. Ông bảo vệ đứa con không chỉ là bảo vệ tình thương ruột rà, mà ông
chính là đang bảo vệ niềm hi vọng và tình yêu cuộc sống của mình nữa. Cho đến tận
những giây phút cuối cùng, ông vẫn kiên quyết muốn con phải vững vàng và tiếp tục
cuộc sống ông không thể hoàn thành.
Đó chỉ mới là một phần. Lí do tôi nói đứa con, cái đáng lẽ
là “biểu tượng hi vọng” đó thực ra lại phát triển một dòng cảm xúc hoàn toàn
ngược lại, khác hẳn với cái danh biểu tượng mà thằng bé phải còng lưng mà gánh.
Chính đứa trẻ “ngây thơ”, còn đẫm tính “nhân đạo”, vô thức cảm động trước những
cảnh khố khổ hiếm hoi đụng phải trên đường đó mới chính là biểu tượng của sự
tuyệt vọng. Thằng bé không đủ trưởng thành để chống chọi với sự chai sạn cảm
xúc trượt dài trên con đường trống rỗng không đích đến, nên chính thằng bé mới
là nhân vật thường trực chờ đợi cái chết một cách bình thản: khác hẳn với người
cha luôn quẫy đạp trong bể khổ, đứa trẻ nép vào sống nhờ vào cái hi vọng mong
manh của người cha bằng thái độ không chờ đợi, không chấp nhận, không hi vọng.
Đấy mới chính là điểm độc đáo của phép đối lập đấy, khi mà người ta tưởng thế
này những thực chất là thế kia cơ. Thằng bé đáng thương đứng trước đau khổ
không còn cách nào khác phải lớn vượt tuổi, trước cả khi kịp có thời gian và trải
nghiệm để chấn hưng sự chịu đựng và duy trì hy vọng nhạt nhoà. Ngay cả ở cảnh
cuối, khi người cha đã chết để lại đứa con may mắn gặp được đồng loại để tiếp
bước, và ngay cả khi đứa con nhận ra rằng “lửa” luôn ở trong mình, thì điều đó
không có nghĩa là cậu bé đã trở nên lạc quan hơn và tin vào tương lai hơn, hay
trở nên xứng đáng với danh hiệu “hy vọng” trên đường tìm kiếm một điều gì đó
trong tương lai hơn. Điều đó chỉ đơn thuần rằng cậu đã nhận hy vọng từ người
cha để tiếp tục sống cuộc đời khắc nghiệt bôn ba, và cậu tin vào “lửa” lòng mình
như tin vào cha để có thể sinh tồn trong vô định mà thôi. Thế nên theo tôi, đứa
trẻ không hẳn là hy vọng, nó là người thừa kế hy vọng từ quá khứ thì đúng hơn.
Nhưng thế thì cũng chẳng khác lắm, dù sao vẫn là đi tìm con đường của mình và
nhân loại mà thôi.
Có thể suy diễn được thêm một vài điều này nọ nữa nhưng sách
không để lại ấn tượng quá mạnh với tôi lắm, vì nó thực sự không kích thích trí
tò mò và muốn bóp méo hình ảnh cuả tôi. Khá ổn cho giải trí và thư giãn nhờ
phong cách và giọng văn êm đềm mờ ảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét